Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030

07:43 | 01/10/2025

13,790 lượt xem
|
(PetroTimes) - Chiều 30/9/2025, Trung ương Hội Dầu khí Việt Nam (Hội DKVN) tổ chức cuộc họp lấy ý kiến đối với Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.

Tham dự cuộc họp có TS. Nguyễn Quốc Thập – Chủ tịch Hội DKVN; Anh hùng Lao động, TS. Nguyễn Hùng Dũng – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội; TS. Phan Ngọc Trung – Trưởng Ban Tư vấn phản biện; cùng lãnh đạo các ban, văn phòng, các hội thành viên (tham dự trực tiếp và trực tuyến).

Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
Toàn cảnh cuộc họp

Dự thảo nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 được Bộ Công Thương chủ trì soạn thảo, trên cơ sở Nghị quyết số 70-NQ/TW (20/8/2025) của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến 2030, tầm nhìn 2045, và chỉ đạo của Thủ tướng tại Văn bản 8617/VPCP-CN (12/9/2025).

Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
TS. Nguyễn Quốc Thập: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội hiện chưa phản ánh đầy đủ tinh thần Nghị quyết 70.

Phát biểu tại cuộc họp, TS. Nguyễn Quốc Thập cho biết, hiện nay, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 70 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được coi là một nghị quyết chuyên đề quan trọng. Nghị quyết này nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn trong triển khai Quy hoạch năng lượng quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng trong giai đoạn mới, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Thông thường, sau khi có nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội cần ban hành một nghị quyết chuyên đề để cụ thể hóa, làm cơ sở cho các bộ, ngành xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ví dụ, với Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 193/2025/QH15 để quán triệt tinh thần này, làm căn cứ điều chỉnh Luật Khoa học và Công nghệ.

Đối với Nghị quyết 70, Quốc hội cũng dự kiến ban hành một nghị quyết chuyên đề. Điểm khác biệt là Quốc hội giao Bộ Công Thương làm cơ quan đầu mối xây dựng dự thảo nghị quyết này. Hiện Bộ Công Thương đã đưa ra dự thảo, lấy ý kiến rộng rãi từ các tập đoàn, doanh nghiệp và xã hội.

Tuy nhiên, qua xem xét, có nhiều ý kiến cho rằng dự thảo chưa phản ánh đầy đủ tinh thần Nghị quyết 70.

Cụ thể như, mặc dù mang tên “nghị quyết về năng lượng quốc gia”, nhưng nội dung chủ yếu tập trung vào điện, chưa bao quát các lĩnh vực khác như dầu khí, than, năng lượng tái tạo phi điện (sinh khối, hydrogen...), hay tiết kiệm năng lượng. Một số vấn đề trọng tâm của Nghị quyết 70, như cơ chế giá truyền tải điện, thị trường điện cạnh tranh, hay việc xóa bỏ độc quyền trong bán lẻ điện không được đề cập trong dự thảo. Đây đều là những điểm nghẽn lớn của ngành năng lượng hiện nay. Phạm vi điều chỉnh trong dự thảo quá hẹp, chủ yếu xoay quanh quy hoạch điện và cấp phép dự án ở cấp tỉnh. Điều này dẫn đến nguy cơ nghị quyết, cũng như việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật liên quan để triển khai thực hiện sẽ không đáp ứng được yêu cầu thực tế.

Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
TS. Nguyễn Hùng Dũng góp ý tại cuộc họp

Tại cuộc họp, các ý kiến cơ bản thống nhất cần thiết ban hành Nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030. Tuy nhiên, các đại biểu cũng thẳng thắn chỉ ra những vấn đề bất cập tại Dự thảo Nghị quyết như: Nếu nghị quyết chỉ tập trung vào điện, cần đặt lại tên cho chính xác, ví dụ: “Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2026–2030”. Hoặc: “Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2026–2030”. Nếu vẫn giữ tên “Nghị quyết năng lượng quốc gia”, thì cần bổ sung các lĩnh vực khác ngoài điện để phản ánh đúng tinh thần toàn diện của Nghị quyết 70.

Ngoài ra, dự thảo hiện nay còn những điểm cần chỉnh sửa, như: Cách đặt vấn đề trong Tờ trình chưa rõ ràng, khó hiểu; Giải thích từ ngữ chưa đầy đủ, nhiều chỗ mơ hồ; Chưa có cơ chế xử lý trường hợp dự án điện đi qua nhiều tỉnh, trong khi thực tế nhiều dự án (như điện gió ngoài khơi, đường dây 500kV) có phạm vi liên tỉnh.

Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
TS. Phan Ngọc Trung góp ý tại cuộc họp

Về thẩm quyền phê duyệt dự án truyền tải, các đại biểu cho rằng, với các dự án truyền tải điện liên tỉnh, liên vùng, thủ tục phê duyệt do Bộ Công Thương thực hiện sẽ phức tạp hơn nhiều so với các dự án trong phạm vi một tỉnh. Thực tế, khi địa phương đã đồng ý nhưng vẫn phải xin lại Bộ Công Thương thì dẫn đến chồng chéo, kéo dài thời gian. Do đó, cần có cơ chế phân cấp rõ ràng: nếu dự án chỉ trong một tỉnh thì tỉnh quyết định, còn liên tỉnh, liên vùng thì Bộ Công Thương phê duyệt.

Về hợp đồng BOT và bảo lãnh Chính phủ: Các dự án BOT trước đây đang bị “tắc nghẽn” do vấn đề bảo lãnh vay vốn và phân chia rủi ro. Hiện Chính phủ không còn bảo lãnh toàn diện như trước, chỉ hỗ trợ gián tiếp ở mức 30% doanh thu chuyển đổi ngoại tệ. Phần còn lại (70%) để doanh nghiệp tự lo, nhưng điều này khó khả thi, khiến nhà đầu tư e ngại. Cơ chế bảo lãnh chưa thực sự tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất: rủi ro tỷ giá và khả năng chuyển đổi ngoại tệ.

Về cơ chế đặc thù cho điện khí LNG: Dự thảo quy định áp dụng cơ chế hợp đồng bao tiêu sản lượng tối thiểu đến năm 2031, với mức 75% sản lượng điện bình quân nhiều năm. Tuy nhiên, chưa làm rõ các mốc pháp lý về “vận hành thương mại” để được thanh toán, dễ dẫn đến tranh cãi như đã từng xảy ra với điện mặt trời.

Cũng tại cuộc họp, nhiều ý kiến cho rằng dự thảo cơ chế mới về điện lực còn một số điểm chưa rõ ràng, cần điều chỉnh để thu hút đầu tư.

Trước hết, vấn đề thanh toán và ngoại tệ vẫn là rào cản lớn khi giá điện tính bằng USD nhưng thanh toán bằng VND, trong khi cơ chế bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ chỉ ở mức 30% chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế.

Về sản lượng điện tối thiểu, cần quy định gọn và rõ: dự án phải duy trì sản lượng dài hạn không thấp hơn 75% bình quân nhiều năm, đây là cơ sở để đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng.

Đối với thời hạn áp dụng cơ chế, thay vì cách diễn đạt gây khó hiểu, nên quy định “áp dụng trong thời gian trả nợ gốc và lãi vay, nhưng tối đa 15 năm kể từ khi vận hành thương mại”.

Riêng với khảo sát điện gió ngoài khơi, cần có đề án điều tra cơ bản cấp quốc gia, tương tự khảo sát điều tra cơ bản trong dầu khí, làm nền dữ liệu chung. Sau đó, từng nhà đầu tư sẽ tự chi trả khảo sát cho dự án cụ thể, với sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.

Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030
Các đại biểu tham gia góp ý vào Dự thảo Nghị quyết

Về Điều 11 – Chủ trương đầu tư dự án điện gió ngoài khơi, có nhiều ý kiến cho rằng quy định hiện nay còn bất cập, chưa thống nhất với các luật liên quan.

Trước hết, cần làm rõ khái niệm “ngoài khơi”. Theo Luật Tài nguyên và Môi trường biển, vùng biển trong phạm vi 6 hải lý thuộc quyền quản lý của tỉnh. Tuy nhiên, các dự án điện gió ngoài khơi có thể nằm ở vị trí xa hơn 6 hải lý, khi đó lại không thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của địa phương. Việc giao cho UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư trong những trường hợp này là chưa phù hợp, dễ phát sinh mâu thuẫn.

Thực tế, nhiều dự án điện gió có phạm vi trải rộng, có thể liên quan đến từ hai đến ba tỉnh, hoặc đặt trạm thu gom điện ở tỉnh này trong khi khu vực tua-bin lại thuộc vùng biển tỉnh khác. Điều này sẽ gây khó khăn trong xác định thẩm quyền phê duyệt và phân chia trách nhiệm, lợi ích giữa các địa phương. Do đó, thẩm quyền quyết định các dự án điện gió ngoài khơi nên thuộc cấp bộ hoặc Chính phủ, cụ thể là Bộ Công Thương hoặc Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Địa phương chỉ nên tham gia với vai trò phối hợp, lấy ý kiến, đặc biệt liên quan đến quốc phòng – an ninh, an toàn biển.

Một số ý kiến cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải bổ sung cơ chế: Bảo đảm an ninh – quốc phòng, vì các dự án ngoài khơi liên quan trực tiếp đến vùng biển chiến lược; Khuyến khích đầu tư trong nước, thay vì chỉ chung chung như hiện nay; EVN cần công bố hợp đồng mẫu (PPA) trong một thời hạn cụ thể, tránh tình trạng chậm trễ hoặc để trách nhiệm “treo” nhiều năm. Hợp đồng mẫu phải rõ ràng, minh bạch về điều khoản, tương tự như hợp đồng dầu khí hiện nay; Xây dựng và mở dữ liệu về năng lượng tái tạo, trong đó phải có cơ chế khai thác, sử dụng cho nhà đầu tư, viện nghiên cứu và các tổ chức liên quan.

Kết luận cuộc họp, TS. Nguyễn Quốc Thập cho rằng dự thảo mới chỉ giải quyết vấn đề kỹ thuật, chưa tháo gỡ các rào cản lớn về thể chế và cơ chế mua bán điện như tinh thần Nghị quyết 70 đề ra. TS. Nguyễn Quốc Thập đề xuất cần có cơ quan độc lập giám sát việc thực hiện nghị quyết, đồng thời Quốc hội sớm ban hành Luật Năng lượng tái tạo để tạo hành lang pháp lý thống nhất, lâu dài cho phát triển điện gió ngoài khơi và năng lượng sạch.

Hội Dầu khí Việt Nam sẽ tổng hợp các ý kiến góp ý cụ thể đối với dự thảo nghị quyết để trình Bộ Công Thương. Cùng với đó, Hội sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất nhằm góp phần xây dựng nghị quyết mới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc triển khai các dự án năng lượng tái tạo, năng lượng mới trong thời gian tới.

Huy Tùng - Nguyễn Hiệp

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 08:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 08:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 08:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16486 16754 17332
CAD 18161 18437 19053
CHF 32034 32416 33063
CNY 0 3470 3830
EUR 29882 30155 31183
GBP 33965 34355 35281
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14473 15061
SGD 19725 20006 20528
THB 732 795 849
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26403
AUD 16735 16835 17760
CAD 18359 18459 19474
CHF 32248 32278 33873
CNY 0 3687.1 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30057 30087 31815
GBP 34221 34271 36037
HKD 0 3390 0
JPY 165.33 165.83 176.35
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14712 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19878 20008 20736
THB 0 761.9 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 08:45