Giải cứu cá tra "mắc cạn"

07:33 | 22/12/2012

744 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Theo các chuyên gia, việc tái cơ cấu lại ngành cá tra, phải cần có một chính sách quy hoạch bài bản, từ sản lượng, đầu tư về khoa học (con giống) cho đến chính sách về vốn và lãi suất phải mang tính chất ổn định, chứ không phải lãi suất cứ “nhảy múa” như thời gian qua.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu (XK) thủy sản Việt Nam (VASEP), 11 tháng  năm 2012, kim ngạch XK cá tra đạt hơn 1,5 tỉ USD giảm 1,7% so cùng kỳ. Tuy nhiên XK cá tra hiện đang gặp rất nhiều khó khăn, bất ổn vì rủi ro từ thị trường xuất khẩu, rào cản kỹ thuật, giá cá tra càng ngày càng thấp, lãi suất ngân hàng quá cao… khiến nhiều doanh nghiệp (DN) sản xuất, kinh doanh, nuôi trồng, chế biến, XK cá tra hoạt động cầm chừng hoặc buộc phải phá sản hay tái cơ cấu lại... 

Theo VASEP kim ngạch xuât khẩu cá tra so với cùng kỳ năm ngoái tuy chỉ giảm 1,7%  nhưng ở một số thị trường XK như EU chiếm 25% thị phần cá tra lại suy giảm nghiêm trọng. Chẳng hạn thị trường Tây Ban Nha giảm 19,8%; Hà Lan giảm 20%; Đức giảm 37% so cùng kỳ. Dự báo, với kế hoạch năm 2012, doanh thu XK cá tra khó đạt 1,8 tỉ - 2 tỷ USD.

Về nguyên nhân, thứ nhất hiện nay nền kinh tế thế giới vẫn đang bị suy thoái. Tuy nhiên nhờ có một số thị trường tăng như: Mỹ, khu vực Nam Mỹ nên mới bù đắp phần nào tổng kim ngạch XK chung toàn ngành. Đây là tình hình chung của ngành XK thủy sản trên thế giới không riêng gì Việt Nam.

Thứ hai là lượng cung vượt lượng cầu do tăng trưởng một số mặt hàng thủy sản như tôm thẻ chân trắng, cá hồi, cá rô phi, cùng với sản lượng đánh bắt con cá Alaska Pollock của Mỹ và Nga tăng hơn 2 triệu tấn (do hạn ngạch đánh bắt của một số nước tăng). Trong khi đó, đáng lo ngại nhất là giá thành nuôi trồng của các mặt hàng thủy sản đều tăng trên 20% do giá thức ăn tăng từ đầu quý 2 năm nay. Chẳng hạn bã dầu đậu nành từ 420 USD/tấn và đã dao động ở mức 650USD - 680 USD/tấn khiến giá thành thức ăn từ đầu năm 2012 đến nay tăng hơn 15% trong khi đó giá XK lại giảm trên 5%.

Vì vậy nhiều DN không có hàng dự trữ phải chịu lỗ sản xuất và bán ra từ 5%-10%. Tình hình này đã  kéo dài cả năm 2012. Trong bối cảnh hiện nay, việc cạnh tranh không lành mạnh ở trong nước và quốc tế vẫn tiếp diễn; trong nước thì phá giá, quốc tế thì dựng lên các hàng rào kỹ thuật gay gắt... dẫn đến sự kìm hãm sự phát triển nghề cá tra xuất khẩu.

Ngoài ra, chính sách tiền tệ cũng gây rất nhiều khó khăn cho người nuôi và nhà chế biến, XK cá tra. Trong nửa đầu năm lãi suất cao đã “bóp ngẹt” ngành cá tra . Sức ép bán hàng nhanh để trả nợ ngân hàng đã gây ra cạnh tranh giá không lành mạnh, bán đổ bán tháo để lấy tiền chứ không phải bán để lấy lời. Đây là nguyên nhân chính khiến thị trường XK cá tra VN trong năm nay bị ảnh hưởng nghiêm trọng. 

Cá tra mắc cạn làm hình ảnh con cá tra trong mắt nhà nhập khẩu thế giới kém đi, xấu đi khiến họ quay lưng với cá tra. Hiện nay là người nông dân, các DN nuôi trồng, chế biến, XK cá tra rất khó tiếp cận nguồn tín dụng của ngân hàng do hệ lụy từ việc phá sản và sản xuất cầm chừng của hàng loạt DN kinh doanh, XK, chế biến cá tra, nên khó khăn chồng chất khó khăn… Chu trình nuôi trồng - sản xuất - XK chỉ có thể hoạt động bình thường trở lại khi DN được vốn ưu đãi để thu mua cá từ nông dân.

Tại cuộc họp mới đây giữa VASEP với Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho biết trong 9 tháng đầu năm 2012, dư nợ cho vay đối với sản xuất cá tra đạt trên 38.000 tỉ đồng. Số dư nợ trên cho hơn 6.000 hộ nuôi và hơn 250 DN vay. Chỉ tính từ sau khi có chỉ đạo của Thủ tướng (Công văn 1149, ngày 8/8/2012) về chính sách tín dụng cho thủy sản và chăn nuôi, dư nợ cho vay đối với hộ nuôi, chế biến cá tra lên tới trên 10.300 tỉ đồng. Tuy nhiên ông Dương Ngọc Minh, Phó Chủ tịch Vasep cho biết, con số trên là không thể có, cần kiểm tra lại. Con số này quá lớn, mà nếu có, thì các DN không phải bán tháo cá tra, để giá giảm như hiện nay.

Mặt khác, năm 2012, cơ cấu nuôi trồng là DN nuôi 70%, còn dân nuôi 30%. Trong số hộ dân nuôi cá, phần lớn là họ có tiền, nên tỉ lệ vay ngân hàng rất ít, còn hộ nuôi nhỏ lẻ, gần như không vay được vốn, nên lấy đâu con số hơn 6.000 hộ vay.

Cũng theo VASEP, số DN chế biến xuất khẩu cá tra chỉ khoảng 70 DN, trong đó khoảng 30% gần như chết rồi, thì lấy đâu ra hơn 250 DN chế biến cá tra?

Hiệp hội, rõ ràng không có con số như NHNN báo cáo.

Trước những con số bất khả tín trên, Bộ NN&PTNT trong báo cáo Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mới đây về tháo gỡ khó khăn cho ngành thủy sản, đề nghị cần kiểm tra, xác minh lại, vì thực tế con số từ các doanh nghiệp và địa phương thấp hơn nhiều.

Theo Tổng Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), diện tích nuôi thả cá tra từ đầu năm đến nay là gần 5.500ha, tăng 12% so cùng kỳ năm ngoái. Hiện diện tích đã thu hoạch hơn 3.850ha.

Hiện nay dù nhu cầu tiêu thụ cá tra một số nước có dấu hiệu tăng để đón Giáng sinh và năm mới, nhưng giá cá tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long chỉ còn 20.500- 21.700 đồng/kg, vẫn giảm 500-700 đồng/kg so với đầu tháng 12.

Theo các chuyên gia, việc tái cơ cấu lại ngành cá tra, phải cần có một chính sách quy hoạch bài bản, từ sản lượng, đầu tư về khoa học (con giống) cho đến chính sách về vốn và lãi suất phải mang tính chất ổn định, chứ không phải lãi suất cứ “nhảy múa” như thời gian qua. Ngoài ra cần phải cải thiện hình ảnh cá tra VN bằng cách đẩy mạnh tuyên truyền trong và ngoài nước về con cá này. Đặc biệt đối với nước ngoài, con cá tra phải đảm bảo được tiêu chuẩn hóa về chất lượng, môi trường thông qua sự công nhận của các tổ chức quốc tế có uy tín.

Từ đó, mới định hướng được vấn đề đầu tư nuôi trồng và XK trên cơ sở xem xét yếu tố về thị trường. Chúng ta không thể phát triển nóng theo kế hoạch từng năm mà cần dựa vào những tiêu chí, tình hình tiêu thụ của từng thị trường khác nhau. Từ đó, mới có thể định hướng lại thị trường tiêu thụ, tạo hình ảnh về chất lượng, khuyến khích các kênh tiêu thụ đảm bảo vấn đề lợi nhuận thì mới mong giúp cá tra hết “mắc cạn”, thị trường XK cá tra ổn định trở lại.

                                                 Hà Nam

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 ▼50K 11,250 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 ▼50K 11,240 ▼50K
Cập nhật: 14/05/2025 21:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 115.500
TPHCM - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Hà Nội - PNJ 113.000 115.500
Hà Nội - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 113.000 115.500
Đà Nẵng - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Miền Tây - PNJ 113.000 115.500
Miền Tây - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 115.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 115.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 114.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 114.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 86.630
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 67.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 48.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.220 105.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.980 70.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.600 75.100
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.050 78.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.890 43.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.700 38.200
Cập nhật: 14/05/2025 21:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 11,540
Trang sức 99.9 11,080 11,530
NL 99.99 10,750 ▼100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,750 ▼100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 11,600
Miếng SJC Thái Bình 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Cập nhật: 14/05/2025 21:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16260 16528 17111
CAD 18096 18371 18991
CHF 30432 30807 31467
CNY 0 3358 3600
EUR 28532 28799 29832
GBP 33793 34182 35133
HKD 0 3191 3394
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 15130 15723
SGD 19455 19736 20266
THB 696 759 812
USD (1,2) 25660 0 0
USD (5,10,20) 25698 0 0
USD (50,100) 25726 25760 26105
Cập nhật: 14/05/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 34,157 34,250 35,174
HKD 3,266 3,276 3,375
CHF 30,560 30,655 31,517
JPY 173.56 173.87 181.63
THB 742.96 752.13 805.7
AUD 16,599 16,659 17,110
CAD 18,391 18,450 18,945
SGD 19,637 19,698 20,321
SEK - 2,637 2,729
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,842 3,975
NOK - 2,478 2,564
CNY - 3,560 3,657
RUB - - -
NZD 15,120 15,261 15,707
KRW 17.19 - 19.27
EUR 28,701 28,724 29,949
TWD 774.77 - 938.02
MYR 5,635.47 - 6,358.8
SAR - 6,799.87 7,157.47
KWD - 82,173 87,374
XAU - - -
Cập nhật: 14/05/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,770 25,780 26,120
EUR 28,452 28,566 29,668
GBP 33,916 34,052 35,023
HKD 3,262 3,275 3,381
CHF 30,354 30,476 31,375
JPY 171.89 172.58 179.66
AUD 16,458 16,524 17,055
SGD 19,594 19,673 20,210
THB 759 762 796
CAD 18,293 18,366 18,877
NZD 15,157 15,665
KRW 17.53 19.31
Cập nhật: 14/05/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25740 25740 26100
AUD 16446 16546 17114
CAD 18277 18377 18933
CHF 30664 30694 31583
CNY 0 3563.8 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28813 28913 29685
GBP 34098 34148 35261
HKD 0 3270 0
JPY 174.17 175.17 181.68
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15248 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19606 19736 20468
THB 0 724.8 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 14/05/2025 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,760 25,810 26,180
USD20 25,760 25,810 26,180
USD1 25,760 25,810 26,180
AUD 16,534 16,684 17,755
EUR 28,851 29,001 30,178
CAD 18,236 18,336 19,652
SGD 19,689 19,839 20,315
JPY 174.52 176.02 180.67
GBP 34,198 34,348 35,128
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,449 0
THB 0 760 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 14/05/2025 21:45