GDP đầu người sắp vượt 3.000 USD, dân Việt sẽ tăng mạnh sở hữu ô tô

14:14 | 21/11/2020

224 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ sở hữu xe ô tô thấp trong khu vực với chỉ 23 xe/1.000 dân. Dự báo doanh số xe năm 2021 trở đi sẽ đạt trên 500.000 xe (tăng 25% so với năm 2019).
GDP đầu người sắp vượt 3.000 USD, dân Việt sẽ tăng mạnh sở hữu ô tô - 1
Nhu cầu xe ô tô đang rất lớn

Dịch Covid-19 được kiểm soát, tiêu thụ ô tô phục hồi

Trong nửa đầu năm, ngành ô tô bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19, doanh số bán hàng của các thành viên Hiệp hội ô tô Việt Nam (VAMA) giảm 30% so với cùng kỳ, xuống còn 102.720 chiếc.

Tuy vậy, với những chính sách hỗ trợ từ phía Chính phủ như giảm 50% phí trước bạ ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước và áp thuế nhập khẩu 0% với nguyên liệu, linh kiện, vật tư trong nước chưa sản xuất được giúp giảm chi phí mua xe, khôi phục nhu cầu của người dân.

Doanh số xe từ tháng 7 đến tháng 10 đạt 104.424 chiếc (ghi nhận tăng 1% so cùng kỳ). Sau 10 tháng, ngành ô tô ghi nhận sụt giảm 17%, chỉ đạt 204.144 chiếc.

Theo nhận xét của chuyên gia phân tích từ Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC), các chính sách nêu trên đã kích cầu xe du lịch nên doanh số từ tháng 7 đến tháng 10 đã tăng 3,1% so cùng kỳ, lên 77.022 chiếc. Trong khi đó, đà giảm doanh số xe thương mại và đặc chủng cũng chậm lại khi hết cách ly xã hội và nền kinh tế tăng trưởng trở lại từ quý 3/2020.

GDP đầu người sắp vượt 3.000 USD, dân Việt sẽ tăng mạnh sở hữu ô tô - 2

Xét theo nguồn gốc xuất xứ, từ tháng 7 đến tháng 10, trong khi lượng xe lắp ráp trong nước bán ra tăng 10,8% so cùng kỳ (đạt 68.066 chiếc), doanh số xe nhập khẩu tiếp tục giảm 14,8% (còn 37.160 chiếc). Nguyên nhân do các chính sách của Chính phủ chỉ hỗ trợ giảm chi phí sản xuất và chi phí mua xe cho xe nội địa.

Còn xét theo thị phần, Thaco tiếp tục là công ty có thị phần lớn nhất với 34,8%. Tiếp sau là các thương hiệu đến từ Nhật Bản như Toyota, Honda, Mitsubishi. Trong đó, thị phần Mitsubishi tiếp tục tăng trưởng nhờ sự ưa chuộng của người mua với mẫu xe Mitsubishi Xpander. Ford - đơn vị “thống lĩnh” phân khúc xe bán tải - đứng ở vị trí thứ 5 với 8,8%.

VDSC đánh giá, thông thường, các công ty lớn sẽ có lợi thế về giá thành sản xuất nhờ quy mô lớn, giúp giá bán phù hợp với túi tiền của người mua hơn. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của các công ty nhỏ, qua đó thị phần của các công ty khác giảm dần qua các năm.

Ngành ô tô có nhiều tiềm năng tăng trưởng trong thời gian tới

Theo đánh giá của chuyên gia VDSC, ngành ô tô trong nước đang được hưởng lợi nhờ các chính sách hỗ trợ từ phía Chính phủ.

Từ ngày 10/7/2020, Nghị định 57/2020/NĐ-CP cho phép các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước đạt chuẩn (hiện có 9 đơn vị như Toyota, Thaco, TC Motor, Hyundai,…) được hưởng thuế nhập khẩu 0% đối với nguyên liệu, linh kiện, vật tư trong nước chưa sản xuất được.

Điều này giúp chi phí sản xuất giảm 2-5%, hỗ trợ giảm giá bán và kích thích nhu cầu mua xe của người dân.

Ngoài ra, Chính phủ đang xem xét miễn thuế tiêu thụ đặc biệt những linh kiện đã được nội địa hóa (hiện mức thuế cao khiến chi phí sản xuất tại Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực từ 10-20%) và hình thành gói tín dụng ưu đãi cho ngành công nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ.

Nhóm phân tích cũng đánh giá, tiềm năng tăng trưởng ngành dựa trên 3 yếu tố quy mô dân số, thu nhập bình quân đầu người và số lượng xe trên 1.000 dân.

Hiện Việt Nam đang đứng thứ 15 thế giới về dân số với tổng số dân hiện tại ở mức 97,6 triệu người và đến năm 2025 dự kiến sẽ đạt 101,1 triệu người.

GDP bình quân đầu người năm 2019 ở mức 2.590 USD nên dự kiến sẽ sớm vượt mức 3.000 USD trong vài năm tới, khi đó xu thế ô tô hóa sẽ diễn ra và tiến tới tỷ lệ 50 xe/1.000 dân. Chuyên gia VDSC cho biết, thông thường khi mức GDP bình quân của 1 quốc gia vượt mốc 3.000 USD, tỷ lệ tăng trưởng ngành ô tô sẽ cao hơn.

GDP đầu người sắp vượt 3.000 USD, dân Việt sẽ tăng mạnh sở hữu ô tô - 3

Theo công ty khảo sát BMI, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ sở hữu xe ô tô thấp trong khu vực với chỉ 23 xe/1.000 dân. Do đó, dự báo doanh số xe năm 2021 trở đi sẽ đạt trên 500.000 xe (tăng 25% so với năm 2019).

Hệ thống giao thông cải thiện, kích thích nhu cầu sử dụng xe ô tô. Bộ Giao thông vận tải dự kiến sẽ có 48 dự án giao thông được khởi công và hoàn thành trong năm 2020, cao nhất trong vòng 4 năm qua. Ngoài ra, các tuyến metro nội đô của Hà Nội và TP.HCM sẽ sớm đưa vào sử dụng trong năm 2021 sẽ giảm bớt tình trạng ùn tắc giao thông.

Cùng với đó, áp lực thanh lý hàng tồn kho thấp hơn các năm trước cũng là yếu tố hỗ trợ cho tiêu thụ.

Trong 9 tháng, dịch bệnh đã làm hạn chế nguồn cung trong và ngoài nước (các nhà máy trong nước phải đóng cửa đợt cách ly xã hội tháng 4, khó khăn trong việc nhập khẩu linh kiện, phụ kiện và sản xuất Thái Lan sụt giảm khiến cung xe nhập khẩu giảm) nên ước tính số xe tiêu thụ đã vượt tổng nguồn cung. Qua quý 4, VDSC dự kiến, tổng cung đạt 127.000 chiếc, tổng cầu đạt 122.000 chiếc, nên năm 2020 tồn kho không đáng kể.

Tuy vậy, ở chiều ngược lại, chuyên gia VSDC cũng lưu ý, còn nhiều khó khăn với các doanh nghiệp ô tô nội khi cạnh tranh với các sản phẩm ngoại nhập.

Hiện cả nước có tầm 50 doanh nghiệp lắp ráp ô tô với tỷ lệ nội địa hóa khoảng 10-15%, thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Malaysia và Indonesia (70%). Điều này khiến giá thành ô tô sản xuất tại Việt Nam cao hơn 10-20%, giảm tính cạnh tranh so với các mẫu xe nhập khẩu.

Kết luận lại, VDSC cho rằng, doanh số bán hàng ngành ô tô sẽ tăng trưởng ở quý 4/2020 và năm 2021 nhờ tình hình kinh tế tích cực và những chính sách hỗ trợ từ phía Chính phủ.

Nhiều khả năng biên lợi nhuận gộp không cải thiện do cạnh tranh cao nhưng nhờ chi phí bán hàng được tiết giảm (không còn phải đưa ra các chính sách khuyến mãi để kích cầu như nửa đầu năm 2020 hay để thanh lý hàng tồn kho như năm 2019) sẽ giúp lợi nhuận sau thuế của các công ty ô tô tăng trưởng.

Mai Chi

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC HCM 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 ▲1250K 75,450 ▲1250K
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 ▲1250K 75,350 ▲1250K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 ▲800K 84,800 ▲800K
Cập nhật: 26/04/2024 22:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
TPHCM - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Hà Nội - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Hà Nội - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Đà Nẵng - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Đà Nẵng - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Miền Tây - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Miền Tây - SJC 83.000 ▲1000K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 ▲800K 75.600 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 ▲700K 85.200 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 ▲800K 74.500 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 ▲600K 56.030 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 ▲460K 43.730 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 ▲330K 31.140 ▲330K
Cập nhật: 26/04/2024 22:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 ▲80K 7,590 ▲80K
Trang sức 99.9 7,375 ▲80K 7,580 ▲80K
NL 99.99 7,380 ▲80K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 ▲80K 7,620 ▲80K
Miếng SJC Thái Bình 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,320 ▲90K 8,520 ▲90K
Cập nhật: 26/04/2024 22:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 ▲1000K 85,200 ▲900K
SJC 5c 83,000 ▲1000K 85,220 ▲900K
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 ▲1000K 85,230 ▲900K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 ▲700K 75,500 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 ▲700K 75,600 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 73,700 ▲800K 74,700 ▲700K
Nữ Trang 99% 71,960 ▲693K 73,960 ▲693K
Nữ Trang 68% 48,451 ▲476K 50,951 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 28,803 ▲292K 31,303 ▲292K
Cập nhật: 26/04/2024 22:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 22:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,217 16,237 16,837
CAD 18,208 18,218 18,918
CHF 27,194 27,214 28,164
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,539 3,709
EUR #26,196 26,406 27,696
GBP 31,016 31,026 32,196
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.93 157.08 166.63
KRW 16.22 16.42 20.22
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,218 2,338
NZD 14,787 14,797 15,377
SEK - 2,239 2,374
SGD 18,044 18,054 18,854
THB 631.5 671.5 699.5
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 22:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 22:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 22:45