Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc Hội Phan Đức Hiếu:

Đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT 5% là hợp lý

11:15 | 19/06/2024

29,469 lượt xem
|
(PetroTimes) - Trao đổi với PetroTimes, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Phan Đức Hiếu cho rằng, do mặt hàng phân bón không phải là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT/VAT) nên các chi phí đầu vào để sản xuất ra mặt hàng này không được khấu trừ về thuế. Đây chính là một điểm gây bất lợi cho doanh nghiệp và làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh.
Đã đến lúc không thể không sửa đổi Luật 71Đã đến lúc không thể không sửa đổi Luật 71
Cần sửa đổi Luật Thuế GTGT để giải quyết các bất cập trong thực tiễnCần sửa đổi Luật Thuế GTGT để giải quyết các bất cập trong thực tiễn
Đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT 5% là hợp lý
Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Phan Đức Hiếu

Chiều 17/6, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật Thuế GTGT (sửa đổi), dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế GTGT.

Góp ý dự Luật Thuế GTGT (sửa đổi), nhiều đại biểu bày tỏ băn khoăn về việc ban soạn thảo cần xem xét, việc đưa phân bón, máy móc nông nghiệp về đối tượng chịu thuế GTGT 5% đã hợp lý chưa? Trao đổi với PetroTimes về vấn đề này, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, việc đưa mặt hàng phân bón từ diện không chịu thuế GTGT vào đối tượng chịu thuế GTGT 5% như tờ trình của Chính phủ là quyết định đúng đắn, hợp lý.

Bởi theo ông Hiếu, về mặt cảm quan, tăng thuế sẽ làm tăng giá sản phẩm, nhưng thực tế có thể không như vậy. Ví dụ, hiện nay doanh nghiệp không được khấu trừ thuế VAT đầu vào nên họ phải tính vào giá thành sản phẩm. Nếu đưa phân bón vào diện chịu thuế VAT, doanh nghiệp được khấu trừ và chi phí sản xuất giảm nên họ có dư địa lớn để cạnh tranh, giảm giá.

“Sự điều chỉnh này hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả cho ngành nông nghiệp để mọi người trong ngành đều được hưởng lợi tốt nhất, chứ không đơn thuần là tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp hay tăng giá, giảm giá”, ông Hiếu nhận định.

Giải thích thêm về điều này, ông Hiếu nói, "Tại sao trước đây phân bón không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, nay đưa vào đối tượng chịu thuế và áp thuế 5% lại có lợi hơn? Chúng ta hình dung ra, trước đây đối với nhóm mặt hàng này không chịu thuế nên hậu quả là các chi phí sản xuất ra mặt hàng phân bón không được khấu trừ về thuế, chính lại là một điểm gây ra bất lợi cho doanh nghiệp và làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh".

Ông Hiếu lấy ví dụ, giả sử mặt hàng phân bón được đánh thuế 5% nhưng mà chi phí đầu vào áp với mức thuế VAT 8% đang được hưởng ưu đãi, thì được khấu trừ là 8%; đầu ra trả thêm 5% nhưng đầu vào họ được khấu trừ 8%. Như vậy, thấy ngay một điểm là chi phí sản xuất về mặt lý thuyết doanh nghiệp đã có lợi hơn một khoản chênh từ 2% đến 3% để giảm chi phí sản xuất, nên đây là một quyết định rất có lợi.

Ông Hiếu cho biết thêm, "Trong quá trình thẩm tra tờ trình, nhiều đại biểu cho rằng việc đưa mặt hàng phân bón vào diện chịu thuế GTGT 5% thì có nguy cơ làm tăng giá phân bón, về ý kiến này, ông Hiếu không hoàn toàn nhất trí. Bởi theo ông Hiếu, chúng ta phải phân biệt được chi phí sản xuất ra sản phẩm và giá bán là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Đưa mặt hàng phân bón vào diện chịu thuế và đánh mức thuế 5% thì hiện nay cho thấy có lợi cho doanh nghiệp và về mặt lý thuyết là sẽ giảm được chi phí sản xuất ra mặt hàng phân bón, như vậy sẽ giảm chi phí sản xuất, góp phần giảm giá bán. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các sản phẩm thì đây là một cơ hội rất lớn để các doanh nghiệp giảm giá bán, tăng năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.

Còn về phương án áp thuế 0% đối với phân bón, ông Hiếu phân tích, "Ban đầu quả thật tôi cũng nghĩ tại sao lại áp thuế suất 5% mà không áp thuế suất là 0%. Nếu như chúng ta đặt mục tiêu là làm sao mức thuế phù hợp nhất để có lợi cho bà con nông dân, người sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, xét như bình thường, chỉ với sản xuất trong nước thì rõ ràng mức thuế 0% sẽ có lợi hơn so với 5%. Khi đó đầu ra không tăng nhưng đầu vào được khấu trừ thuế, qua đó tăng giá trị tiết giảm chi phí sản xuất và làm gia tăng cơ hội để giảm giá thành. Nhưng nếu nhìn rộng hơn là mặt hàng phân bón không phải là chỉ có sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với cả sản phẩm phân bón nhập khẩu vào Việt Nam. Nên khi phân tích hai phương án này thì chúng ta thấy, nếu áp dụng thuế 0% thì doanh nghiệp trong nước có cơ hội để giảm giá bán do giảm giá thành sản xuất nhưng các sản phẩm nhập khẩu thì năng lực cạnh tranh vẫn giữ nguyên nên mặc dù dư địa để nâng cao năng lực cạnh tranh là có nhưng theo tôi sẽ nhỏ hơn trong trường hợp áp dụng mức thuế 5%. Khi đó phân bón nhập khẩu cũng phải chịu thuế 5% và như vậy họ buộc phải tính toán chi phí và giá bán tăng thêm 5%. Do đó, nhìn rộng hơn thì áp dụng thuế 5% còn làm gia tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp sản xuất trong nước, qua đó vừa thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất trong nước mà vẫn đảm bảo được mục tiêu giảm giá bán".

“Khi phân tích hai phương án này thì cá nhân tôi cho rằng, là nếu như nhìn ở bình diện lớn hơn thì đưa mặt hàng phân bón vào diện chịu thuế GTGT và áp mức thuế 5% là phù hợp, có lợi hơn so với phương án 0%”, ông Phan Đức Hiếu nhấn mạnh.

Đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT 5% là hợp lý
Các chi phí đầu vào để sản xuất ra mặt hàng phân bón không được khấu trừ về thuế gây bất lợi cho doanh nghiệp , làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh/ Ảnh minh họa

Trước đó, với mong muốn giúp nông dân có thể tiếp cận được nguồn phân bón giá rẻ, chất lượng, Luật số 71/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 đã quy định mặt hàng phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Tuy nhiên, qua thực tế, chính sách này lại làm cho doanh nghiệp sản xuất phân bón chịu thêm nhiều sức ép và hoàn toàn không có tác dụng khuyến khích đầu tư công nghệ mới trong sản xuất, có nguy cơ đẩy ngành sản xuất phân bón Việt Nam “đi thụt lùi”, ngược xu thế.

Nói về bất cập của quy định trên, Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, Luật Thuế GTGT hiện hành quy định phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, tàu đánh bắt xa bờ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Với quy định này, doanh nghiệp phân bón sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước không được hoàn thuế GTGT đầu vào, mà phải hạch toán vào chi phí sản xuất, dẫn đến chi phí sản xuất tăng, giá thành sản phẩm tăng theo và lợi nhuận giảm, bất lợi trong cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu cùng loại, vì thực tế hầu hết các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước đều sử dụng nguyên vật liệu đầu vào với mức thuế suất thuế GTGT là 10%, chi phí này chiếm khoảng 50% giá vốn hàng bán, nên khi không được khấu trừ sẽ hạch toán vào chi phí và đẩy giá thành tăng là điều tất yếu.

Trên thực tế cũng cho thấy, chỉ những doanh nghiệp nhập khẩu phân bón hoặc những đơn vị sản xuất NPK chuyên dùng nguyên liệu nhập khẩu mới được hưởng lợi do không chịu thuế GTGT. Như vậy, việc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm phân bón vô hình trung đã tạo ra bất lợi cho cả doanh nghiệp và nông dân, đặc biệt là nông dân phải mua với giá cao, không đúng như mong muốn của Quốc hội và Chính phủ. Vì vậy, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nông dân, việc chuyển phân bón sang diện chịu thuế GTGT là cần thiết.

Đã đến lúc không thể không sửa đổi Luật 71Đã đến lúc không thể không sửa đổi Luật 71
Cần sửa đổi Luật Thuế GTGT để giải quyết các bất cập trong thực tiễnCần sửa đổi Luật Thuế GTGT để giải quyết các bất cập trong thực tiễn
[P-Magazine] Cấp thiết đưa thuế GTGT phân bón về mức 5%[P-Magazine] Cấp thiết đưa thuế GTGT phân bón về mức 5%

Huy Tùng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 15,140 ▲50K 15,340 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 11:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,485 ▲1337K 151 ▼1354K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,485 ▲1337K 1,511 ▲5K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 147 ▼1318K 150 ▼1345K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 144,015 ▲129663K 148,515 ▲133713K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,161 ▲375K 112,661 ▲375K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,466 ▲34K 10,216 ▲34K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,159 ▲305K 91,659 ▲305K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 80,109 ▲292K 87,609 ▲292K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,206 ▲208K 62,706 ▲208K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16605 16874 17448
CAD 18200 18476 19091
CHF 32061 32443 33091
CNY 0 3470 3830
EUR 29911 30183 31212
GBP 33981 34371 35302
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 17 19
NZD 0 14688 15277
SGD 19725 20006 20527
THB 733 796 850
USD (1,2) 26105 0 0
USD (5,10,20) 26147 0 0
USD (50,100) 26175 26195 26403
Cập nhật: 26/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,110 30,134 31,280
JPY 165.65 165.95 172.91
GBP 34,346 34,439 35,248
AUD 16,856 16,917 17,359
CAD 18,421 18,480 19,002
CHF 32,355 32,456 33,119
SGD 19,889 19,951 20,574
CNY - 3,675 3,772
HKD 3,341 3,351 3,433
KRW 16.74 17.46 18.75
THB 781.55 791.2 841.88
NZD 14,664 14,800 15,152
SEK - 2,729 2,808
DKK - 4,028 4,144
NOK - 2,544 2,618
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,991.18 - 6,719.99
TWD 761.07 - 916.32
SAR - 6,931.85 7,256.12
KWD - 83,751 88,676
Cập nhật: 26/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,924 30,044 31,176
GBP 34,096 34,233 35,203
HKD 3,323 3,336 3,444
CHF 32,078 32,207 33,098
JPY 164.89 165.55 172.49
AUD 16,749 16,816 17,353
SGD 19,908 19,988 20,529
THB 795 798 834
CAD 18,374 18,448 18,982
NZD 14,665 15,174
KRW 17.34 18.94
Cập nhật: 26/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26170 26170 26403
AUD 16781 16881 17809
CAD 18381 18481 19496
CHF 32310 32340 33931
CNY 0 3687.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30096 30126 31851
GBP 34278 34328 36091
HKD 0 3390 0
JPY 165.68 166.18 176.73
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14800 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19882 20012 20740
THB 0 762.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15140000 15140000 15340000
SBJ 13000000 13000000 15340000
Cập nhật: 26/11/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,403
USD20 26,190 26,240 26,403
USD1 23,889 26,240 26,403
AUD 16,789 16,889 18,010
EUR 30,196 30,196 31,327
CAD 18,308 18,408 19,724
SGD 19,949 20,099 20,715
JPY 165.59 167.09 171.76
GBP 34,316 34,466 35,253
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,571 0
THB 0 798 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 11:00