Doanh nghiệp Việt "đuối" trong AEC

09:04 | 20/02/2017

353 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Với quy mô hơn 600 triệu dân, mức tiêu thụ cao và thu nhập đang tăng lên, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được xem là bài “test” về năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp Việt Nam trên đường hội nhập kinh tế quốc tế. Sau 1 năm thành lập AEC, phóng viên Báo Năng lượng Mới đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) về những đánh giá về khả năng “thích nghi” với AEC của doanh nghiệp Việt Nam.

PV: Đầu tiên, xin bà cho biết đánh giá của mình về AEC sau 1 năm được thành lập?

Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Trước tiên, tôi xin nhấn mạnh rằng, thời điểm các nước ASEAN tuyên bố thành lập AEC chỉ là thời điểm các nước ASEAN thể hiện rõ quyết tâm thực hiện các mục tiêu chung của ASEAN trong việc hình thành thị trường đơn nhất, một cơ sở sản xuất chung… và lấy con người làm trung tâm. AEC đã có lịch sử từ năm 1992 với một loạt những thỏa thuận, cam kết pháp lý cũng như các tuyên bố, những lời hứa hợp tác giữa các nước ASEAN về các vấn đề kinh tế. Vì vậy trong suốt quá trình nhiều năm, chúng ta đang thực hiện những cam kết, thỏa thuận… để hướng tới mục tiêu chung của khu vực. Với lý do như vậy, năm 2016 không phải năm đầu tiên thực hiện AEC và để nói về AEC thì chúng ta phải nói về cả một quá trình nhiều năm thực hiện những thỏa thuận, cam kết… trong ASEAN.

Còn riêng trong năm 2016, năm đầu tiên sau tuyên bố ASEAN về AEC, thì rất tiếc phải nói rằng, mặc dù chúng ta đã có nhiều nỗ lực tuyên truyền để cộng đồng doanh nghiệp biết về AEC nhưng dường như kết quả chưa được như mong muốn. Nếu nhìn vào những con số cơ học thì có thể thấy, trong năm 2016, vì nhiều yếu tố khác nhau, xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN đang giảm sút, đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang ASEAN giảm so với 2015. Và đứng từ góc độ các cam kết pháp lý thì trong vòng 1 năm qua, mặc dù vẫn có những cuộc gặp, cuộc họp cấp cao ASEAN và có thêm nhiều tuyên bố, cam kết hợp tác… nhưng lại không có văn bản gì mới. Trong năm 2016, các nước ASEAN vẫn cùng nhau thực hiện các mục tiêu đã được đặt ra từ trước, theo lộ trình AEC đến năm 2025.

PV: Theo dữ liệu của cơ quan thống kê, sau 1 năm triển khai AEC, nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN giảm 1,9% nhưng xuất khẩu vào các nước ASEAN lại giảm tới 5,6%. Bà bình luận thế nào về vấn đề này?

doanh nghiep viet duoi trong aec

Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Thực ra khi nói về tỷ lệ tăng trưởng của xuất nhập khẩu thì rất khó nói được đâu là nguyên nhân cụ thể. Nó có thể là nhu cầu của thị trường nhưng cũng lại có thể là do nhiều yếu tố khác của nền kinh tế. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh đến thực tế là các nước ASEAN mà chúng ta hiện đang có lưu lượng thương mại lớn thì chủ yếu nằm trong các nước ASEAN đã có lộ trình loại bỏ thuế hoàn thành rồi. Cho nên, từ năm 2015 đến 2016, đối với nhóm nước này, gần như các vấn đề về mặt thuế quan, chúng ta không có lợi gì hơn. Trong khi đó, về phía Việt Nam thì chúng ta vẫn đang có những bước giảm thuế theo cam kết, bãi bỏ. Và tất nhiên, khi chúng ta thực hiện lộ trình này, các nước sẽ lợi dụng cơ hội này. Vì thế, nó có thể là một lý do về mặt cơ học để chúng ta giải thích được tại sao nhập khẩu của các nước ASEAN vào Việt Nam dù giảm nhưng giảm ít hơn so với mức giảm xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN.

PV: Phải chăng doanh nghiệp Việt Nam lại đang “đói” thông tin dẫn đến việc thụ động khi AEC chính thức được tuyên bố thành lập?

Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Tôi không nghĩ câu chuyện ở đây là thiếu thông tin vì chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, mọi thứ đều được công khai, minh bạch. Vấn đề ở đây là doanh nghiệp cần là những thông tin cụ thể, đáp ứng nhu cầu và gần sát, có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mà những thông tin này ở Việt Nam thì lại tương đối là rời rạc, khá là chung và chưa được mặc định hóa, chưa được xử lý để giúp doanh nghiệp có thể tận dụng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.

Tôi lấy ví dụ: Doanh nghiệp có mặt hàng X và muốn xuất khẩu sang các nước ASEAN, để thực hiện việc này, doanh nghiệp muốn có thông tin về biểu thuế cho hàng hóa đó như thế nào, những thủ tục riêng mà hàng hóa ASEAN có thể được hưởng ra làm sao… thì họ phải đi tìm ở rất nhiều nơi. Nhưng nếu chúng ta có một đầu mối để xử lý tất cả thông tin này cho họ, họ chỉ cần vào 1 nơi là có thể tìm được thì sẽ rất hữu ích cho doanh nghiệp.

Chúng ta biết rằng, trong thời đại này, thông tin là sức mạnh và doanh nghiệp nếu có được thông tin mà mình mong muốn, được xử lý thì tức là đã cầm trong tay một công cụ mang lại cho mình sự cạnh tranh.

doanh nghiep viet duoi trong aec
Hàng Thái tấn công siêu thị Việt

PV: Vậy đâu là nguyên nhân chính cho câu chuyện này, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Ở đây tôi muốn nhấn mạnh, nắm được thông tin, biết được thông tin là một chuyện và thực hiện được hay không là một chuyện khác. Năng lực cạnh tranh là bài toán mà doanh nghiệp phải tự mình bằng rất nhiều nỗ lực, hành động khác nhau để thực hiện. Chẳng hạn, ở trong ASEAN, có nhiều người nói rằng đây là thị trường mà trong đó có 10 nền kinh tế và đều có cơ cấu kinh tế gần giống nhau, cạnh tranh nhau nên lợi ích thu về từ những nền kinh tế này là không nhiều. Nhưng trên thực tế thì lý thuyết kinh tế hiện đại bây giờ người ta đang nghĩ khác và nó đang hướng tới người tiêu dùng. Người tiêu dùng có thể cùng 1 sản phẩm ấy nhưng lại có nhu cầu khác nhau. Anh có thể có cơ cấu giống nhau, nhưng nếu anh có những sáng tạo để cung cấp cho người tiêu dùng những lựa chọn khác nhau thì người ta vẫn có thể thắng. Với cách nhìn nhận theo hướng hiện đại này thì rõ ràng ngày ở trong ASEAN, nếu doanh nghiệp sáng tạo, tìm được thế mạnh của mình thì hoàn toàn có thể cạnh tranh được trong một thị trường mà mức tiêu dùng lớn và thu nhập thì đang tăng lên.

PV: Trong câu chuyện cạnh tranh đó thì vấn đề quản lý các thông số kỹ thuật như thế nào khi hiện nay, nhiều chuyên gia cho rằng có một số thông số hiện đang vượt tầm quản lý?

Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Một trong những khía cạnh hợp tác của AEC là hợp tác về tiêu chuẩn, nhất là tiêu chuẩn kỹ thuật. Hợp tác này hiện đang được thực hiện theo 2 hướng: Thứ nhất là, hài hòa hóa các quy chuẩn kỹ thuật, hay nói cách khác là sử dụng các quy chuẩn kỹ thuật chung. Và hướng thứ hai là, thừa nhận lẫn nhau về thủ tục đánh giá tính phù hợp. Đây là hướng rất tốt và phù hợp cho doanh nghiệp. Nhưng với mảng thứ nhất, các quy chuẩn kỹ thuật về thực chất đó là các hàng rào kỹ thuật để áp cho các doanh nghiệp khi sản xuất hàng hóa. Vậy nên, một hàng rào kỹ thuật chung cho các nước ASEAN thì cũng tốt, nhưng vấn đề là các nước ASEAN có trình độ phát triển khác nhau, mục tiêu chính sách khác nhau… thì sẽ rất khó khăn.

Ở đây, chúng tôi khuyến nghị Chính phủ cùng với cộng đồng doanh nghiệp mỗi khi ban hành hoặc có những quy chuẩn mới ở trong ASEAN thì nên có tham vấn rộng rãi và có nghiên cứu về tác động của các quy chuẩn kỹ thuật dự kiến ban hành với doanh nghiêp, đặc điểm của doanh nghiệp Việt Nam.

PV: Xin cảm ơn bà!

Thanh Ngọc (thực hiện)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 122,000
AVPL/SJC HCM 120,000 122,000
AVPL/SJC ĐN 120,000 122,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 11,450
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 11,440
Cập nhật: 11/05/2025 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 122.000
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 122.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 122.000
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 11/05/2025 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 12,200
Miếng SJC Nghệ An 12,000 12,200
Miếng SJC Hà Nội 12,000 12,200
Cập nhật: 11/05/2025 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 11/05/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 11/05/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 11/05/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 11/05/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/05/2025 16:45