"Doanh nghiệp muốn nhận chính sách hỗ trợ thì lên… ti vi"

07:59 | 10/06/2021

1,030 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI) Đậu Anh Tuấn phản ánh, sau hơn một năm chống đỡ với dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp đuối sức, nhiều chính sách hỗ trợ không dễ tiếp cận.

Ông Đậu Anh Tuấn phản ánh thông tin này tại cuộc tọa đàm về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức ngày 9/6. Tại cuộc tọa đàm, vấn đề sức khỏe nền kinh tế sau đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4 là nội dung nhận được nhiều ý kiến mổ xẻ.

Lo lắng về khả năng "bùng" lạm phát

Doanh nghiệp muốn nhận chính sách hỗ trợ thì lên… ti vi - 1
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Quang Tuấn phát biểu tại cuộc tọa đàm.

Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Quang Tuấn cảnh báo về một nguy cơ cần sớm tính toán, xử lý trong năm nay, khi đợt dịch nghiêm trọng này đi qua, đó là vấn đề lạm phát.

Ông Tuấn phân tích, công tác phòng chống, kiềm chế dịch bệnh, cả nước đã làm quá tốt. Chiến lược vắc xin đang đề ra đúng đắn. Về tăng trưởng GDP, trong bối cảnh khó khăn mà giữ được mức như hiện tại (khoảng 5,5-5,8% trong 5 tháng đầu năm) cũng ổn. Nhưng lạm phát sẽ là vấn đề lo ngại đối với mục tiêu giữ ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian tới.

"Những năm qua, mức lạm phát ở Việt Nam không cao nhưng xu hướng thời gian tới sẽ tăng cao. Đó là do các gói hỗ trợ, kích thích nền kinh tế đã bung ra, tới độ trễ vài tháng nữa sẽ thấy tác động. Hiện tại, các yếu tố đầu vào cho sản xuất, tiêu dùng cũng đã tăng mạnh, xăng dầu tăng 30%, các loại hàng hóa, nguyên vật liệu khác đã tăng 16%... Sắp tới, chỉ số tăng giá tiêu dùng hẳn là phải bị tác động, đội lên" - ông Tuấn dự báo.

Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực đề cập ý kiến lo lắng về khả năng "bùng" lạm phát cuối năm nay. Ông đánh giá, khả năng xuất hiện tình trạng lạm phát bùng phát như năm 2011 thì không có vì yếu tố cơ bản nhất là sức mua, sức tiêu dùng hiện rất yếu. Giá cả hàng hóa có tăng hay giảm thì người dân cũng không mua bán nhiều trong bối cảnh dịch bệnh hiện nay.

Tuy nhiên, ông Lực cũng nhấn mạnh, một số con số cho thấy cần kiểm soát sát sao, điều hành linh hoạt. Thực tế, giá xăng dầu đã tăng 30%, tức chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung tăng khoảng 0,42%. Tương tự, giá nguyên vật liệu tăng 20-25% thì CPI tăng 0,02-0,03%. Ngoài ra, độ trễ của cung tiền, tăng giá bất động sản, chứng khoán… cũng sẽ tác động đến giá lương thực thực phẩm, làm giá cả mặt hàng thiết yếu này tăng lên.

Theo đó, chuyên gia Cấn Văn Lực cho rằng, mức tăng giá tiêu dùng, lạm phát của năm nay sẽ cao hơn những năm qua. Việc này, theo ông Lực, liên quan đến vấn đề giám sát. Nếu quá lo lạm phát mà áp dụng chính sách bóp nghẹt như hồi năm 2011 thì sẽ… "chết" nhưng lơi lỏng, chủ quan thì tình hình cũng không đơn giản.

Doanh nghiệp đã "đu xà" hơn năm qua

Doanh nghiệp muốn nhận chính sách hỗ trợ thì lên… ti vi - 2
Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Đậu Anh Tuấn.

Một trong những vấn đề khác được tập trung thảo luận tại cuộc tọa đàm là giải pháp hỗ trợ thế nào để doanh nghiệp có thể sống sót qua đại dịch Covid-19.

Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Quang Tuấn nêu con số 5 tháng vừa rồi, doanh nghiệp ngừng hoạt động, đang chờ làm thủ tục giải thể tăng 20,7%, rồi doanh nghiệp ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 23%.

"Số lượng đó tăng càng ngày càng cao, tức là một năm qua, các doanh nghiệp đã cố gắng đu xà, tưởng là đến giai đoạn này là xong nhưng mà dịch lại bùng phát và nếu thêm vài đợt nữa thì mỏi lắm và mỏi là buông tay thôi. Con số này cho thấy những ông yếu đã buông hết rồi, giờ còn những người khỏe hơn vẫn cố nhưng nếu chỉ 3 tháng nữa hoặc một vài đợt dịch nữa mà không kiểm soát tốt thì buông hết" - ông Tuấn nhận định.

Theo ông Tuấn, đây là vấn đề cần phải bàn tính để tính xem gói hỗ trợ tới đây thế nào.

Ông băn khoăn, nước Mỹ trong bối cảnh tình hình đã tốt lên khi có vắc xin, tiêm rộng rãi trong toàn dân rồi mà còn tung ra những gói kích thích trị giá gấp 3 gói cũ. Điều đó cho thấy tác động của dịch Covid-19 tới các doanh nghiệp vô cùng lớn.

"Tôi cho rằng giai đoạn tới số doanh nghiệp buông còn rất nhiều và như thế số nợ xấu trên bảng của ngân hàng thì đẹp nhưng thực tế còn xấu nhiều lắm vì họ cũng còn rất nhiều cách để báo cáo. Cần ghi nhận đúng thực lực của doanh nghiệp" - ông Tuấn nêu quan điểm.

Nhấn mạnh sức khỏe của doanh nghiệp trên thực tế nghiêm trọng hơn số liệu tại báo cáo, ông Tuấn cho rằng, cần tìm hiểu sâu hơn và có giải pháp mạnh hơn để hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó có việc khoanh nợ. Ông đề nghị, khoanh nợ để doanh nghiệp, nhà đầu tư "quên" chỗ đó đi đã, để có thể tồn tại, phát triển được, sau đó sẽ quay lại tính đến khoản được khoanh.

"Rất nhiều doanh nghiệp phát nản nói, muốn nhận chính sách hỗ trợ thì lên ti vi. Các hiệp hội du lịch đã trả lời, kể cả những thị trường du lịch lớn như TPHCM thì để các hướng dẫn viên du lịch tiếp cận được chính sách này cũng hầu như không có", ông Đậu Anh Tuấn cho biết.

Theo Dân trí

PGS.TS Trần Đình Thiên: Hút PGS.TS Trần Đình Thiên: Hút "đại bàng", du lịch Thanh Hóa đứng trước vận hội mới
Đơ, nghẽn tồi tệ trên HSX, nhà đầu tư còn phải Đơ, nghẽn tồi tệ trên HSX, nhà đầu tư còn phải "sống chung với lũ" bao lâu?
Phấn đấu hoàn thành tuyến Vành đai 3, 4 TPHCM trong giai đoạn 2021-2025Phấn đấu hoàn thành tuyến Vành đai 3, 4 TPHCM trong giai đoạn 2021-2025
Việt Nam vẫn hấp dẫn nguồn vốn ngoạiViệt Nam vẫn hấp dẫn nguồn vốn ngoại
Oil Majors sẽ không còn vai trò dẫn dắt thị trường như trướcOil Majors sẽ không còn vai trò dẫn dắt thị trường như trước

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 06/07/2025 01:01

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 06/07/2025 01:01
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/07/2025 01:01