Đầu tư lưới điện để tránh quá tải

18:08 | 04/09/2019

883 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Hàng nghìn MW công suất nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) được đầu tư xây dựng ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên nhưng khi đưa vào vận hành lại không thể huy động hết công suất vì quá tải lưới điện.

Mặc dù hệ thống lưới điện truyền tải quốc gia hiện đã nằm trong top 4 của ASEAN và top 10 châu Á về quy mô, song cùng với việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn n-1 (tức là có dự phòng) vào năm 2020 và đạt tiêu chuẩn hiện đại vào năm 2030, là các chỉ tiêu sản lượng điện truyền tải phải đạt được trên lưới điện quốc gia - theo kế hoạch đến năm 2020 là khoảng 225 tỷ kWh, năm 2025 là hơn 350 tỷ kWh, năm 2030 đạt khoảng 502 tỷ kWh. Điều này cũng đồng nghĩa rất nhiều công trình, dự án truyền tải điện đã được tính toán, phê duyệt tại Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia phải được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành.

Vậy, quá tải lưới truyền tải điện do đâu? Liệu có nên xã hội hóa việc đầu tư xây dựng lưới truyền tải điện? Ông Lưu Việt Tiến, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT) đã trao đổi về vấn đề này.

Đầu tư lưới điện để tránh quá tải
Ông Lưu Việt Tiến.

PV: Thưa ông, cao điểm tháng 6, tháng 7 vừa qua, EVN cho biết đã không thể giải tỏa hết công suất các nhà máy điện mặt trời ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận do quá tải đường truyền dẫn. Đối với hệ thống lưới điện do EVNNPT quản lý, vận hành có xảy ra tình trạng quá tải không? Thực tế như thế nào thưa ông?

Ông Lưu Việt Tiến: Hiện nay hệ thống truyền tải điện chưa bị quá tải do giải tỏa công suất của các nhà máy điện mặt trời ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận vì một số nhà máy điện mặt trời phải giảm phát để tránh quá tải đường dây 110kV thuộc quản lý của các Tổng công ty Điện lực.

Tuy nhiên trong thời gian tới khi các Tổng công ty Điện lực hoàn thành dự án nâng cấp các đường dây 110kV thì công suất điện mặt trời sẽ dồn lên lưới truyền tải. Cùng với một số nhà máy điện mặt trời thuộc tỉnh Ninh Thuận tiếp tục hòa lưới từ nay đến 2020, dự kiến các TBA 500kV Di Linh, Vĩnh Tân, Đăk Nông, các TBA 220kV Phan Thiết, Tháp Chàm, các đường dây 220kV Nha Trang - Tháp Chàm, Đa Nhim - Đức Trọng, Đức Trọng - Di Linh… sẽ bị quá tải.

PV: Theo tổng sơ đồ Điện 7 (điều chỉnh), đến năm 2020, lưới truyền tải điện đạt tiêu chuẩn độ tin cậy N-1 (nghĩa là có dự phòng). Vậy, tại sao vẫn có hiện tượng quá tải trên lưới điện quốc gia?

Ông Lưu Việt Tiến: Theo Quy hoạch Điện 7 (QHĐ7) (điều chỉnh), đến năm 2020, lưới truyền tải điện đạt tiêu chuẩn độ tin cậy N-1 theo đúng tiêu chí quy hoạch ban đầu. Tuy nhiên trên thực tế vẫn có hiện tượng quá tải do 3 nguyên nhân sau: Một số nguồn điện chậm tiến độ như nhiệt điện than Thái Bình 2, Long Phú, Sông Hậu…Nhiều nguồn điện bổ sung ngoài QHĐ7 (điều chỉnh) trong đó đặc biệt là điện mặt trời tập trung ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Cụ thể, theo QHĐ7 (điều chỉnh), dự kiến đến năm 2020, công suất nguồn điện gió khoảng 800MW, công suất nguồn điện mặt trời khoảng 850MW. Trong khi đó tính đến 30/06/2019 đã có 89 nhà máy điện mặt trời hòa lưới với tổng công suất khoảng 4400MW (chưa kể các nhà máy điện mặt trời, điện gió đang đầu tư xây dựng và đã bổ sung quy hoạch). Các quyết định phê duyệt bổ sung quy hoạch các dự án năng lượng tái tạo chỉ bổ sung các dự án lưới điện trực tiếp đấu nối cho từng dự án cụ thể mà chưa bổ sung quy hoạch các dự án lưới điện trên tổng thể hệ thống điện. Nguyên nhân cuối cùng là do một số dự án lưới điện chậm tiến độ do khó khăn về thủ tục chuẩn bị đầu tư và bồi thường giải phóng mặt bằng.

Đầu tư lưới điện để tránh quá tải
Đường dây 500kV Phú Mỹ - Sông Mây

PV: Việc quá tải cục bộ lưới điện ở một số địa phương do các dự án nguồn đầu tư lớn dẫn đến nhu cầu phải đầu tư bổ sung lưới mới đảm bảo truyền tải hết công suất… Tại sao việc đầu tư bổ sung lưới điện lại không được triển khai đồng thời với các dự án nguồn này?

Ông Lưu Việt Tiến: Từ năm 2017-2018 đến nay có khoảng 130 dự án điện mặt trời với tổng công suất khoảng 8.500MW và điện gió với tổng công suất khoảng 2.000MW được bổ sung vào QHĐ7 nhưng đến tháng 12/2018 mới bổ sung vào QHĐ7 danh mục lưới điện truyền tải 220kV và 500kV để đấu nối, truyền tải công suất các nhà máy điện mặt trời.

Trong khi đó, nếu đầu tư đồng thời thì thời gian đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải thường chậm hơn các nhà máy điện mặt trời từ 2-3 năm đối với đường dây 220kV, 3-5 năm đối với đường dây 500kV.

Do đó việc đầu tư bổ sung lưới điện truyền tải không thể đồng bộ với các nhà máy điện mặt trời. EVNNPT kiến nghị việc bổ sung quy hoạch các nhà máy điện mặt trời, điện gió phải được xem xét đồng bộ với việc bổ sung quy hoạch lưới điện truyền tải để EVNNPT chủ động trong việc triển khai đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải.

PV: Những khó khăn của EVNNPT trong quá trình triển khai lưới điện 500-220kV là gì thưa ông?

Ông Lưu Việt Tiến: Về quy hoạch, trước hết là sự thiếu đồng bộ giữa quy hoạch nguồn điện và lưới điện, nhiều nguồn thủy điện nhỏ, điện mặt trời, điện gió được bổ sung quy hoạch nhưng lưới điện không được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Ví dụ dự án TBA 220kV Lao Bảo và đường dây 220kV Đông Hà – Lao Bảo phải xin điều chỉnh quy hoạch để tăng khả năng truyền tải các nhà máy điện gió tại Quảng Trị. Ngoài ra còn có sai khác giữa QHĐ7 (điều chỉnh) với các Quy hoạch phát triển điện lực của các tỉnh, thành phố về tiến độ, quy mô dẫn đến phải xin hiệu chỉnh.

Về thủ tục đầu tư xây dựng, thời gian chuẩn bị đầu tư kéo dài do các thủ tục thỏa thuận pháp lý chính như: thỏa thuận địa điểm trạm, thỏa thuận hướng tuyến đường dây với các tỉnh, thành phố; thỏa thuận vị trí, chiều cao, biện pháp cảnh báo hàng không với Cục Tác chiến – Bộ Quốc phòng; thủ tục trình, phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường; thủ tục trình Bộ Công Thương thẩm tra TKCS, TKKT…

Về bồi thường giải phóng mặt bằng, công tác kiểm kê, xác định nguồn gốc đất, phê duyệt đơn giá và phương án bồi thường, xin chủ trương cho chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng… gặp nhiều khó khăn. Ví dụ dự án đường dây 220kV Nha Trang- Tháp Chàm khởi công ngày 25/12/2017 nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành công tác bồi thường giải phóng mặt bằng. Ngoài ra trong quá trình thi công, nhiều hộ dân đòi chi phí đền bù thi công quá cao không cho nhà thầu xây lắp vào thi công, các địa phương không tích cực hỗ trợ bảo vệ thi công dẫn đến tiến độ kéo dài. Ví dụ dự án Trạm biến áp 220kV Lưu Xá khởi công ngày 25/12/2016 đến nay vẫn chưa đóng điện do 3 hộ dân đòi chi phí đền bù thi công quá cao không cho nhà thầu xây lắp vào thi công.

PV: Trân trọng cảm ơn đã tham gia cuộc trao đổi này!

Nguyên Long (thực hiện)

EVN đang phải "độc hành"
Giải pháp khả thi bù đắp điện thiếu hụt
Khuyến mại lắp đặt điện mặt trời áp mái dịp Quốc khánh
EVN cam kết hỗ trợ tối đa mọi yêu cầu của người dân, doanh nghiệp

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 ▼350K 83,650 ▼350K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 ▼350K 83,650 ▼350K
Cập nhật: 19/04/2024 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 ▲30K 7,670 ▲20K
Trang sức 99.9 7,455 ▲30K 7,660 ▲20K
NL 99.99 7,460 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Cập nhật: 19/04/2024 22:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▲100K 76,700 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▲100K 76,800 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▲100K 76,000 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,248 ▲99K 75,248 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,335 ▲68K 51,835 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,345 ▲42K 31,845 ▲42K
Cập nhật: 19/04/2024 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,030 16,050 16,650
CAD 18,216 18,226 18,926
CHF 27,490 27,510 28,460
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,548 3,718
EUR #26,287 26,497 27,787
GBP 31,122 31,132 32,302
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.43 160.58 170.13
KRW 16.27 16.47 20.27
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,235 2,355
NZD 14,751 14,761 15,341
SEK - 2,259 2,394
SGD 18,135 18,145 18,945
THB 636.73 676.73 704.73
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 22:00