Đầu tư lưới điện để tránh quá tải

18:08 | 04/09/2019

884 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Hàng nghìn MW công suất nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) được đầu tư xây dựng ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên nhưng khi đưa vào vận hành lại không thể huy động hết công suất vì quá tải lưới điện.

Mặc dù hệ thống lưới điện truyền tải quốc gia hiện đã nằm trong top 4 của ASEAN và top 10 châu Á về quy mô, song cùng với việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn n-1 (tức là có dự phòng) vào năm 2020 và đạt tiêu chuẩn hiện đại vào năm 2030, là các chỉ tiêu sản lượng điện truyền tải phải đạt được trên lưới điện quốc gia - theo kế hoạch đến năm 2020 là khoảng 225 tỷ kWh, năm 2025 là hơn 350 tỷ kWh, năm 2030 đạt khoảng 502 tỷ kWh. Điều này cũng đồng nghĩa rất nhiều công trình, dự án truyền tải điện đã được tính toán, phê duyệt tại Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia phải được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành.

Vậy, quá tải lưới truyền tải điện do đâu? Liệu có nên xã hội hóa việc đầu tư xây dựng lưới truyền tải điện? Ông Lưu Việt Tiến, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT) đã trao đổi về vấn đề này.

Đầu tư lưới điện để tránh quá tải
Ông Lưu Việt Tiến.

PV: Thưa ông, cao điểm tháng 6, tháng 7 vừa qua, EVN cho biết đã không thể giải tỏa hết công suất các nhà máy điện mặt trời ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận do quá tải đường truyền dẫn. Đối với hệ thống lưới điện do EVNNPT quản lý, vận hành có xảy ra tình trạng quá tải không? Thực tế như thế nào thưa ông?

Ông Lưu Việt Tiến: Hiện nay hệ thống truyền tải điện chưa bị quá tải do giải tỏa công suất của các nhà máy điện mặt trời ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận vì một số nhà máy điện mặt trời phải giảm phát để tránh quá tải đường dây 110kV thuộc quản lý của các Tổng công ty Điện lực.

Tuy nhiên trong thời gian tới khi các Tổng công ty Điện lực hoàn thành dự án nâng cấp các đường dây 110kV thì công suất điện mặt trời sẽ dồn lên lưới truyền tải. Cùng với một số nhà máy điện mặt trời thuộc tỉnh Ninh Thuận tiếp tục hòa lưới từ nay đến 2020, dự kiến các TBA 500kV Di Linh, Vĩnh Tân, Đăk Nông, các TBA 220kV Phan Thiết, Tháp Chàm, các đường dây 220kV Nha Trang - Tháp Chàm, Đa Nhim - Đức Trọng, Đức Trọng - Di Linh… sẽ bị quá tải.

PV: Theo tổng sơ đồ Điện 7 (điều chỉnh), đến năm 2020, lưới truyền tải điện đạt tiêu chuẩn độ tin cậy N-1 (nghĩa là có dự phòng). Vậy, tại sao vẫn có hiện tượng quá tải trên lưới điện quốc gia?

Ông Lưu Việt Tiến: Theo Quy hoạch Điện 7 (QHĐ7) (điều chỉnh), đến năm 2020, lưới truyền tải điện đạt tiêu chuẩn độ tin cậy N-1 theo đúng tiêu chí quy hoạch ban đầu. Tuy nhiên trên thực tế vẫn có hiện tượng quá tải do 3 nguyên nhân sau: Một số nguồn điện chậm tiến độ như nhiệt điện than Thái Bình 2, Long Phú, Sông Hậu…Nhiều nguồn điện bổ sung ngoài QHĐ7 (điều chỉnh) trong đó đặc biệt là điện mặt trời tập trung ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Cụ thể, theo QHĐ7 (điều chỉnh), dự kiến đến năm 2020, công suất nguồn điện gió khoảng 800MW, công suất nguồn điện mặt trời khoảng 850MW. Trong khi đó tính đến 30/06/2019 đã có 89 nhà máy điện mặt trời hòa lưới với tổng công suất khoảng 4400MW (chưa kể các nhà máy điện mặt trời, điện gió đang đầu tư xây dựng và đã bổ sung quy hoạch). Các quyết định phê duyệt bổ sung quy hoạch các dự án năng lượng tái tạo chỉ bổ sung các dự án lưới điện trực tiếp đấu nối cho từng dự án cụ thể mà chưa bổ sung quy hoạch các dự án lưới điện trên tổng thể hệ thống điện. Nguyên nhân cuối cùng là do một số dự án lưới điện chậm tiến độ do khó khăn về thủ tục chuẩn bị đầu tư và bồi thường giải phóng mặt bằng.

Đầu tư lưới điện để tránh quá tải
Đường dây 500kV Phú Mỹ - Sông Mây

PV: Việc quá tải cục bộ lưới điện ở một số địa phương do các dự án nguồn đầu tư lớn dẫn đến nhu cầu phải đầu tư bổ sung lưới mới đảm bảo truyền tải hết công suất… Tại sao việc đầu tư bổ sung lưới điện lại không được triển khai đồng thời với các dự án nguồn này?

Ông Lưu Việt Tiến: Từ năm 2017-2018 đến nay có khoảng 130 dự án điện mặt trời với tổng công suất khoảng 8.500MW và điện gió với tổng công suất khoảng 2.000MW được bổ sung vào QHĐ7 nhưng đến tháng 12/2018 mới bổ sung vào QHĐ7 danh mục lưới điện truyền tải 220kV và 500kV để đấu nối, truyền tải công suất các nhà máy điện mặt trời.

Trong khi đó, nếu đầu tư đồng thời thì thời gian đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải thường chậm hơn các nhà máy điện mặt trời từ 2-3 năm đối với đường dây 220kV, 3-5 năm đối với đường dây 500kV.

Do đó việc đầu tư bổ sung lưới điện truyền tải không thể đồng bộ với các nhà máy điện mặt trời. EVNNPT kiến nghị việc bổ sung quy hoạch các nhà máy điện mặt trời, điện gió phải được xem xét đồng bộ với việc bổ sung quy hoạch lưới điện truyền tải để EVNNPT chủ động trong việc triển khai đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải.

PV: Những khó khăn của EVNNPT trong quá trình triển khai lưới điện 500-220kV là gì thưa ông?

Ông Lưu Việt Tiến: Về quy hoạch, trước hết là sự thiếu đồng bộ giữa quy hoạch nguồn điện và lưới điện, nhiều nguồn thủy điện nhỏ, điện mặt trời, điện gió được bổ sung quy hoạch nhưng lưới điện không được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Ví dụ dự án TBA 220kV Lao Bảo và đường dây 220kV Đông Hà – Lao Bảo phải xin điều chỉnh quy hoạch để tăng khả năng truyền tải các nhà máy điện gió tại Quảng Trị. Ngoài ra còn có sai khác giữa QHĐ7 (điều chỉnh) với các Quy hoạch phát triển điện lực của các tỉnh, thành phố về tiến độ, quy mô dẫn đến phải xin hiệu chỉnh.

Về thủ tục đầu tư xây dựng, thời gian chuẩn bị đầu tư kéo dài do các thủ tục thỏa thuận pháp lý chính như: thỏa thuận địa điểm trạm, thỏa thuận hướng tuyến đường dây với các tỉnh, thành phố; thỏa thuận vị trí, chiều cao, biện pháp cảnh báo hàng không với Cục Tác chiến – Bộ Quốc phòng; thủ tục trình, phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường; thủ tục trình Bộ Công Thương thẩm tra TKCS, TKKT…

Về bồi thường giải phóng mặt bằng, công tác kiểm kê, xác định nguồn gốc đất, phê duyệt đơn giá và phương án bồi thường, xin chủ trương cho chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng… gặp nhiều khó khăn. Ví dụ dự án đường dây 220kV Nha Trang- Tháp Chàm khởi công ngày 25/12/2017 nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành công tác bồi thường giải phóng mặt bằng. Ngoài ra trong quá trình thi công, nhiều hộ dân đòi chi phí đền bù thi công quá cao không cho nhà thầu xây lắp vào thi công, các địa phương không tích cực hỗ trợ bảo vệ thi công dẫn đến tiến độ kéo dài. Ví dụ dự án Trạm biến áp 220kV Lưu Xá khởi công ngày 25/12/2016 đến nay vẫn chưa đóng điện do 3 hộ dân đòi chi phí đền bù thi công quá cao không cho nhà thầu xây lắp vào thi công.

PV: Trân trọng cảm ơn đã tham gia cuộc trao đổi này!

Nguyên Long (thực hiện)

EVN đang phải "độc hành"
Giải pháp khả thi bù đắp điện thiếu hụt
Khuyến mại lắp đặt điện mặt trời áp mái dịp Quốc khánh
EVN cam kết hỗ trợ tối đa mọi yêu cầu của người dân, doanh nghiệp

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 13:00