Đại gia buôn Mercedes số 1 Việt Nam chớp thời cơ bán toàn bộ cổ phiếu

14:10 | 27/11/2020

359 lượt xem
|
Giữa lúc thị trường chứng khoán đang chinh phục vùng đỉnh cũ thì cổ phiếu Haxaco cũng đã tăng gấp đôi so với đáy hồi tháng 3. "Ông lớn" phân phối Mercedes tranh thủ thời cơ chốt toàn bộ cổ phiếu quỹ.

HAX tăng gấp đôi thị giá so với đáy

Cổ phiếu HAX của Công ty cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh (Haxaco) sáng nay (27/11) có phiên giảm thứ 3 liên tiếp. Mã này mất 0,28% còn 17.750 đồng/cổ phiếu.

Tuy nhiên, mức giá này của HAX đã tăng đáng kể trong thời gian qua: tăng hơn 24% trong vòng 1 tháng và tăng 105,44% so với mức đáy thiết lập hồi cuối tháng 3.

Giá cổ phiếu HAX có sự sụt giảm nhẹ ngoài yếu tố áp lực thị trường chung còn có sự tác động bởi thông tin Hội đồng quản trị thông báo bán toàn bộ 134.270 cổ phiếu quỹ để bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đây là lượng cổ phiếu doanh nghiệp mua vào đầu năm 2019 với giá bình quân 16.600 đồng/cổ phiếu, thấp hơn đáng kể so với mức thị giá hiện tại của HAX.

Thời gian thực hiện giao dịch bán trong tháng 11 và 12, sau khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận hồ sơ mua bán cổ phiếu quỹ.

Đại gia buôn Mercedes số 1 Việt Nam chớp thời cơ bán toàn bộ cổ phiếu - 1
Haxaco tính bán sạch cổ phiếu quỹ để bổ sung vốn lưu động

Đại lý phân phối Mercedes này mới đây báo cáo kết quả kinh doanh quý 3 cho thấy sự phục hồi đáng kể sau khi bị ảnh hưởng tiêu cực bởi Covid-19 trong 2 quý đầu năm. Trong quý 3, doanh thu của Haxaco đạt 1.741 tỷ đồng, tăng hơn 31%; lãi sau thuế hơn 51 tỷ đồng, gấp 3,6 lần cùng kỳ năm trước.

Trong văn bản giải trình kết quả kinh doanh, lãnh đạo Haxaco cho biết doanh nghiệp này đã tận dụng tối đa cơ hội khi chính sách giảm 50% lệ phí trước bạ cho dòng xe lắp ráp trong nước đi vào hiệu lực.

Cả 4 đại lý của Haxaco đều vượt chỉ tiêu doanh số bán hàng và nằm trong top đầu đại lý về doanh số bán xe Mercedes-Benz. Doanh nghiệp kỳ vọng quý 4 vẫn duy trì được đà tích cực này.

Lũy kế 9 tháng, doanh thu Haxaco tăng 3% đạt 3.751 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế thu về 62,5 tỷ đồng, tăng 43% so với cùng kỳ năm 2019. Với kết quả đó, doanh nghiệp đã vượt 23% kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Cổ phiếu Hòa Phát trở lại "đường đua"

Mặc dù vẫn trên ngưỡng 1.000 điểm tuy nhiên, VN-Index đã "rung lắc" mạnh trong phiên sáng nay (27/11). Chỉ số dao động theo hình chữ sin và tạm đóng cửa với mức tăng 0,68 điểm tương ứng 0,07% lên 1006,65 điểm.

HNX-Index ngược lại giảm 0,14 điểm tương ứng 0,09% còn 148,26 điểm; UPCoM-Index tăng 0,24 điểm tương ứng 0,37% lên 66,74 điểm.

Điểm tích cực là dòng tiền vào thị trường vẫn rất tích cực, cho thấy sự hưng phấn của nhà đầu chưa giảm nhiệt. Tuy gặp áp lực chốt lời nhưng tiền mới vẫn ồ ạt vào tìm kiếm cơ hội.

Với khối lượng giao dịch đạt 247,7 triệu cổ phiếu, sàn HSX sáng nay thu hút được 5.240,4 tỷ đồng; HNX có 32,76 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 475,39 tỷ đồng và UPCoM có 17,71 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 184,27 tỷ đồng.

Toàn thị trường chỉ còn 824 mã không có thanh khoản. Trong khi đó, độ rộng thị trường lại đang nghiêng về phía các mã tăng giá: Có 391 mã tăng giá, 50 mã tăng trần so với 327 mã giảm, 33 mã giảm sàn.

Trong sáng nay, HPG đã hồi phục trở lại, tăng 2,8% lên 36.100 đồng và đã đóng góp 0,92 điểm cho VN-Index. Đây cũng là mã có ảnh hưởng tích cực nhất tới chỉ số. Theo thông báo từ trước thì hôm nay là ngày đầu tiên PENM III Germany GmbH &Co. KG (Đức) sẽ thực hiện bán toàn bộ 76,5 triệu cổ phiếu HPG, tương ứng tỷ lệ 2,31% như đã đăng ký.

Bên cạnh đó, BCM, HDB, POW, MWG, HNG… cũng tăng giá. HNG tăng 2,8% lên 14.650 đồng; MWG tăng 1,2% lên 114.200 đồng.

Phía ngược lại, tình trạng giảm giá tại VNM, VCB, VIC, GVR, LGC đã phần nào kìm hãm VN-Index. Tuy nhiên, do mức giảm không sâu nên ảnh hưởng tại những mã này cũng không quá lớn.

Cụ thể, GVR giảm 1,3% còn 19.150 đồng; VNM giảm 0,8% còn 109.000 đồng, BID giảm 0,5% còn 42.400 đồng; VCB giảm 0,5% còn 93.500 đồng; VIC giảm 0,4% còn 105.700 đồng và SAB cũng giảm nhẹ 0,3% còn 194.400 đồng.

Nhìn chung giới phân tích vẫn đang giữ thái độ thận trọng với triển vọng sắp tới của thị trường.

Chuyên gia SHS dự báo, VN-Index có thể sẽ diễn ra những rung lắc khi áp lực chốt lời gia tăng khi thị trường tiến vào vùng kháng cự trong khoảng 1.000-1.030 điểm (đỉnh tháng 11/2019).

Do vậy, nhà đầu tư đang có tỷ trọng cổ phiếu cao trong danh mục có thể bán ra chốt lời khi thị trường nằm trong vùng kháng cự mạnh trong khoảng 1.000-1.030 điểm. Nhà đầu tư đang có tỷ trọng tiền mặt cao trong danh mục nên đứng ngoài và quan sát thị trường trong phiên tới.

Trong khi đó, VDSC thì lạc quan rằng, sau 3 phiên thận trọng trước áp lực bán từ vùng 1.000 điểm, VN-Index đã chính thức bước qua vùng này. Chỉ số vẫn nhịp nhàng giữ xu thế tăng ngắn hạn và dòng tiền vẫn đang chủ động hỗ trợ thị trường, trong khi áp lực cung có phần hạ nhiệt. Điều này cho thấy thị trường đang có cơ hội nới rộng nhịp tăng hiện tại trong thời gian gần tới.

Do vậy, nhà đầu tư có thể lưu giữ danh mục hiện tại và tìm kiếm cơ hội ngắn hạn tại một số cổ phiếu có tín hiệu tăng tốt sau giai đoạn tích lũy cho đến khi thị trường có tín hiệu dừng cụ thể hơn.

Theo Dân trí

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,600 ▲300K 81,600 ▲300K
AVPL/SJC HCM 79,600 ▲300K 81,600 ▲300K
AVPL/SJC ĐN 79,600 ▲300K 81,600 ▲300K
Nguyên liệu 9999 - HN 67,350 ▲50K 67,850 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 67,250 ▲50K 67,750 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,600 ▲300K 81,600 ▲300K
Cập nhật: 19/03/2024 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 67.500 ▲200K 68.700 ▲200K
TPHCM - SJC 79.700 ▲300K 81.700 ▲300K
Hà Nội - PNJ 67.500 ▲200K 68.700 ▲200K
Hà Nội - SJC 79.700 ▲300K 81.700 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 67.500 ▲200K 68.700 ▲200K
Đà Nẵng - SJC 79.700 ▲300K 81.700 ▲300K
Miền Tây - PNJ 67.500 ▲200K 68.700 ▲200K
Miền Tây - SJC 79.700 ▲300K 81.700 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 67.500 ▲200K 68.700 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.700 ▲300K 81.700 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 67.500 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.700 ▲300K 81.700 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 67.500 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 67.400 ▲200K 68.200 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 49.900 ▲150K 51.300 ▲150K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 38.650 ▲120K 40.050 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.120 ▲80K 28.520 ▲80K
Cập nhật: 19/03/2024 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,725 ▲20K 6,880 ▲20K
Trang sức 99.9 6,715 ▲20K 6,870 ▲20K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,790 ▲20K 6,910 ▲20K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,790 ▲20K 6,910 ▲20K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,790 ▲20K 6,910 ▲20K
NL 99.99 6,720 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,720 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 7,975 ▲20K 8,160 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 7,975 ▲20K 8,160 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 7,975 ▲20K 8,160 ▲20K
Cập nhật: 19/03/2024 15:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,700 ▲300K 81,700 ▲300K
SJC 5c 79,700 ▲300K 81,720 ▲300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,700 ▲300K 81,730 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 67,500 ▲250K 68,700 ▲250K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 67,500 ▲250K 68,800 ▲250K
Nữ Trang 99.99% 67,400 ▲250K 68,200 ▲250K
Nữ Trang 99% 66,025 ▲248K 67,525 ▲248K
Nữ Trang 68% 44,531 ▲170K 46,531 ▲170K
Nữ Trang 41.7% 26,592 ▲104K 28,592 ▲104K
Cập nhật: 19/03/2024 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,786.10 15,945.55 16,457.81
CAD 17,795.56 17,975.31 18,552.78
CHF 27,133.26 27,407.34 28,287.82
CNY 3,346.13 3,379.92 3,489.03
DKK - 3,537.69 3,673.32
EUR 26,186.52 26,451.03 27,623.56
GBP 30,644.88 30,954.42 31,948.85
HKD 3,081.01 3,112.13 3,212.11
INR - 297.18 309.08
JPY 160.75 162.37 170.14
KRW 15.98 17.76 19.37
KWD - 80,217.05 83,427.61
MYR - 5,179.04 5,292.23
NOK - 2,273.41 2,370.03
RUB - 257.25 284.79
SAR - 6,573.17 6,836.25
SEK - 2,320.49 2,419.11
SGD 17,990.91 18,172.63 18,756.44
THB 606.92 674.35 700.21
USD 24,545.00 24,575.00 24,895.00
Cập nhật: 19/03/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,868 15,968 16,418
CAD 17,981 18,081 18,631
CHF 27,360 27,465 28,265
CNY - 3,396 3,506
DKK - 3,554 3,684
EUR #26,410 26,445 27,705
GBP 31,045 31,095 32,055
HKD 3,088 3,103 3,238
JPY 161.13 161.13 169.08
KRW 16.68 17.48 20.28
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,275 2,355
NZD 14,713 14,763 15,280
SEK - 2,317 2,427
SGD 17,984 18,084 18,684
THB 633.53 677.87 701.53
USD #24,491 24,571 24,911
Cập nhật: 19/03/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,550.00 24,560.00 24,880.00
EUR 26,323.00 26,429.00 27,594.00
GBP 30,788.00 30,974.00 31,925.00
HKD 3,099.00 3,111.00 3,212.00
CHF 27,288.00 27,398.00 28,260.00
JPY 161.63 162.28 169.90
AUD 15,895.00 15,959.00 16,446.00
SGD 18,115.00 18,188.00 18,730.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17,917.00 17,989.00 18,522.00
NZD 14,768.00 15,259.00
KRW 17.70 19.32
Cập nhật: 19/03/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24530 24580 24995
AUD 15914 15964 16370
CAD 18024 18074 18483
CHF 27615 27665 28083
CNY 0 3399.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26617 26667 27182
GBP 31224 31274 31733
HKD 0 3115 0
JPY 162.5 163 167.56
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0281 0
MYR 0 5337 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14757 0
PHP 0 370 0
SEK 0 2360 0
SGD 18278 18278 18638
THB 0 645.9 0
TWD 0 777 0
XAU 7970000 7970000 8120000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/03/2024 15:00