Da giày, dệt may “toát mồ hôi” với bài toán nguyên liệu và ô nhiễm

10:58 | 28/09/2018

206 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nguồn nguyên liệu không đủ cho sản xuất vì không có chỗ để thuộc da, nhuộm vải. Các địa phương đều “ngán ngẩm” với những ngành nghề này do ô nhiễm môi trường rất dễ xảy ra.

Đó là những thông tin chính được đại diện Hội da giày TPHCM và Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam chia sẻ trong buổi họp báo về Triển lãm quốc tế ngành Công nghiệp Dệt may và Da giày 2018.

Da giày, dệt may “toát mồ hôi” với bài toán nguyên liệu và ô nhiễm
Da giày và dệt may vẫn loay hoay với “bài toán” về nguồn nguyên liệu, ô nhiễm môi trường và nhân lực chất lượng.

Nguồn nguyên liệu “èo uột”

Ông Nguyễn Văn Khánh, Phó Chủ tịch Hội da giày TPHCM cho biết, tăng trưởng của ngành da giày vào thời điểm trước năm 2010 là từ 15% – 21%. Thế nhưng, hiện nay thì tăng trưởng trung bình chỉ còn từ 10 – 12%.

Việc tăng trưởng chậm lại là vì nguồn nguyên phụ liệu chậm phát triển do các địa phương từ chối ngành thuộc da vì ô nhiễm. Trong khi đó, ngành thuộc da hoàn toàn có thể xử lý ô nhiễm được nhưng một số doanh nghiệp lại không chịu làm.

“Khó khăn nhất của ngành da giày là nguồn nguyên phụ liệu. Chính vì vậy, cần xây dựng nguồn nguyên phụ liệu riêng của ngành da giày để tăng trưởng tốt hơn, chứ không thể mãi ở mức trên dưới 10%. Ngành da giày đã phát triển gần 30 năm rồi mà nguồn nguyên phụ liệu vẫn cứ èo uột, chạy đầu này, chạy đầu kia để tìm chỗ sản xuất nguyên phụ liệu”, ông Khánh nói.

Cũng theo ông Khánh, thu nhập của lao động làm trong ngành da giày cũng đang bị giảm xuống. Lý do là ngày trước sản xuất da giày chỉ có Việt Nam, Ấn Độ nhưng hiện nay đã có thêm nhiều nước làm giày khác như Bangladesh, Myanmar, Campuchia nên “miếng bánh” phải chia đều dẫn tới sản lượng giảm, mà sản lượng giảm thì mức lương của người lao động cũng bị giảm theo.

Theo Ban tổ chức Triển lãm quốc tế ngành Công nghiệp Dệt may và Da giày 2018 thì từ lâu, TPHM đã không còn “đất” để phát triển da giày và dệt may do thành phố không khuyến khích phát triển hai ngành này. Bởi, da giày và dệt may cần lượng lao động rất lớn, đa phần những lao động này là người nhập cư. Trong khi thành phố lại đang quá đông dân nên những ngành nghề mang tính đột biến về dân cư và “nhạy cảm” về ô nhiễm môi trường thì không được khuyến khích.

Da giày, dệt may “toát mồ hôi” với bài toán nguyên liệu và ô nhiễm
Lao động làm việc trong ngành da giày cũng đang có thu nhập bị giảm xuống.

Lao động lành nghề “hiếm như sâm”

Ông Nguyễn Bình An, Tổng thư ký Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam cho biết, ngành dệt may Việt Nam vẫn có tăng trưởng bình quân khoảng hơn 15%/năm trong suốt 18 năm qua.

Ngành dệt may luôn định hướng lấy xuất khẩu làm mục tiêu nên việc xuất khẩu trong thời gian qua là rất mạnh. Tỉ trọng xuất khẩu giữa doanh nghiệp vốn trong nước và doanh nghiệp FDI (vốn nước ngoài) cũng đang có sự thay đổi và dịch chuyển lớn.

Cụ thể, giai đoạn từ năm 2000 – 2005 thì tỉ lệ xuất khẩu của doanh nghiệp vốn trong nước là 60%, doanh nghiệp FDI là 40%. Tuy nhiên, hiện nay thì tỉ lệ xuất khẩu của doanh nghiệp vốn trong nước chỉ còn 30% và doanh nghiệp FDI là 70%, thậm chí sắp tới là 20% và 80%.

Theo ông An, doanh nghiệp dệt may FDI đang “lấn át” các doanh nghiệp nội do các doanh nghiệp FDI có nhiều tiềm lực sẵn có tốt hơn như thị trường, nhân lực, đào tạo, công nghệ, nguồn nguyên phụ liệu…

Các doanh nghiệp FDI mang những lợi thế từ đất nước của mình để sang Việt Nam tận dụng nguồn lao động giá rẻ, giá đất tốt và điều kiện về môi trường chưa được siết chặt như các quốc gia phát triển khác.

Vấn đề tiếp theo của ngành dệt may đó là đứng từ góc độ chuỗi cung ứng toàn cầu di chuyển thì chuỗi cung cứng sẽ dịch chuyển từ nơi có lao động giá cao sang nơi có lao động giá hợp lý hơn và Việt Nam là nơi lý tưởng để các doanh nghiệp dệt may dịch chuyển đầu tư về đó. Thế nhưng, trước dòng đầu tư quá nhanh và quá mạnh thì Việt Nam lại đang thiếu lao động có tay nghề.

“Chúng ta đang nói nhiều về tự động hóa, về công nghệ 4.0 và ngày càng có nhiều công nghệ hiện đại, máy móc tân tiến được đưa vào sản xuất. Chính vì vậy, ngành dệt may rất cần có lao động có kỹ năng. Ngày xưa thì một công nhân có thể ngồi 1 máy nhưng bây giờ thì một công nhân phải ngồi 2, 3 máy, đây chính là cái để tăng giá trị của ngành dệt may lên”, ông An nói.

Da giày, dệt may “toát mồ hôi” với bài toán nguyên liệu và ô nhiễm
Doanh nghiệp dệt may cũng lao đao vì khó tìm được lao động có kỹ năng do công tác đào tạo nguồn nhân lực tại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường.

Cũng theo ông An, hệ thống đào tạo nhân lực dệt may của Việt Nam cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư khi áp dụng các công nghệ mới, máy móc mới.

Một vấn đề khác cũng đáng được quan tâm là nhiều doanh nghiệp dệt may FDI đầu tư vào Việt Nam nhưng đã bị từ chối. Lý do là các doanh nghiệp này đã chọn khu công nghiệp không phù hợp. Ông An cho rằng, các doanh nghiệp dệt may cần chọn những khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải chuyên biệt dành cho dệt, nhuộm, thuộc da, xi mạ…vì đây là những ngành nghề được cho là “nhạy cảm”.

“Khu công nghiệp nào không có khu xử lý nước thải cho những ngành nhạy cảm như da giày và dệt may thì địa phương đó sẽ không chào đón doanh nghiệp là điều bình thường. Hiện nay, Việt Nam có khoảng hơn 300 khu công nghiệp nhưng số khu công nghiệp có xử lý nước thải chuyên biệt cho da giày hay dệt may là rất ít”, ông An nói.

Theo Dân trí

Việt Nam sắp vượt Trung Quốc trở thành nhà cung cấp hàng dệt may lớn nhất vào Hàn Quốc
PVTEX sẽ giải “cơn khát” nguyên liệu của dệt may Việt!
Con đường nào vượt qua “cửa tử” (Kỳ cuối)
Con đường nào vượt qua “cửa tử” (Kỳ 2)
Con đường nào vượt qua “cửa tử” (Kỳ 1)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 11,090
Cập nhật: 29/06/2025 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 116.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 113.400 116.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 113.400 116.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 113.400 116.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 115.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 115.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 114.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 114.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 86.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 67.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 48.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 105.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 70.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 75.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 78.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 43.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 38.170
Cập nhật: 29/06/2025 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 11,590
Trang sức 99.9 11,130 11,580
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 11,650
Miếng SJC Thái Bình 11,720 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,720 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,720 11,920
Cập nhật: 29/06/2025 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 29/06/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 29/06/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 29/06/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 29/06/2025 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/06/2025 16:45