Đã đến thời xe sang tại Việt Nam bán "phá giá, xuống nước" để chống ế?

07:02 | 10/09/2020

220 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau cú sốc xe sang giảm giá vài trăm triệu đến cả tỷ đồng/chiếc, nhiều khách hàng và dân buôn xe cho rằng thị trường xe sang Việt bắt đầu đến giai đoạn "phá giá" để chạy doanh số.

Lâu nay, thị trường xe sang Việt Nam vẫn chủ yếu là sân chơi thuộc về các hãng như BMW, Audi, Mercedes..., gần đây có các hãng xe nhập như Volvo, Range Rover. Sự bùng nổ về tăng trưởng kinh tế, tầng lớp thị dân gia tăng và đặc biệt trung lưu tăng nhanh đã khiến thị trường ngách cho xe sang nở rộ, trở thành miếng bánh mà bất cứ hãng xe, doanh nghiệp nào tham gia và kiếm tìm lợi nhuận.

Đã đến thời xe sang tại Việt Nam bán phá giá, xuống nước để chống ế? - 1
Nhiều mẫu xe thuộc thương hiệu xe sang tại Việt Nam đã giảm giá mạnh, điều chưa từng có tiền lệ

Trong vòng 2 năm trở lại đây, một loạt mẫu xe sang giảm giá vài trăm triệu đồng đến cả tỷ đồng đã được ghi nhận.

Xe sang buộc phải giảm giá để chống ế

BMW X7 giảm từ 700 triệu đồng đến 1,4 tỷ đồng/chiếc, giá bán của hãng và giá đại lý đang có sự chênh lệch rõ rệt. Mẫu Range Rover Autobiography LWB cũng được doanh nghiệp xe nhập giảm hơn 260 triệu đồng/chiếc. Mẫu BMW 7 series đời 2019 hay Q5, Q7 của Audi tại Việt Nam cũng được giảm giá bán từ 100 - 300 triệu đồng tại các đại lý.

Đại diện của Ford là Explorer từ năm 2019 đến nay giảm giá từ 2,3 tỷ đồng xuống 1,8 tỷ đồng, giảm gần nửa tỷ đồng so với trước đây.

Ngoài giảm giá, các mẫu xe thuộc phân khúc cao cấp tầm giá từ 1,5 đến dưới 3 tỷ đồng tại Việt Nam cũng đang có rất nhiều mẫu có xu hướng giảm giá hoặc ra mẫu xe mới với công nghệ và tiện nghi tràn trề.

Đơn cử như VinFast LuxSA2.0 các bản đều giảm giá mạnh với hàng trăm triệu đồng; các mẫu BMW 5 Series đời 2020 hoặc BMW X3 đời 2020 cũng có sự giảm giá mạnh hoặc bản nâng cấp nội thất cao hơn so với các mẫu đời cũ.

Theo một số chuyên gia về xe hơi cũng như người kinh doanh xe, thị trường xe Việt vài năm trở lại đây đã xuất hiện xu hướng cải tổ về giá và đa dạng về mẫu xe.

Ở phân khúc xe giá rẻ, xe phổ thông đang có rất nhiều mẫu mã, thương hiệu để người tiêu dùng lựa chọn hơn thay vì chỉ có vài mẫu như trước kia.

Thị trường xe cao cấp, xe sang vẫn chứng kiến sự cải tổ chậm hơn. Giá vẫn khá cao, các loại xe không phong phú và vẫn có nhiều dư địa để cải thiện. Tuy nhiên, với sự chủ động giảm giá của Range Rover, BMW cho các mẫu xe sang, cho thấy thị trường kỳ vọng sắp tới sẽ có làn sóng giảm giá xe sang.

Chuyên gia về ô tô, ông Nguyễn Minh Đồng cho rằng, xe sang Việt Nam có thị trường ngách với biên lợi nhuận lớn. Với dân số trẻ, tỷ lệ thị dân tăng nhanh, tầng lớp trung lưu, người giàu trẻ Việt đang tăng mạnh, đây có thể coi là thị trường béo bở cho các hãng, doanh nghiệp tranh giành.

Tuy nhiên, ông này cũng cho rằng, để thị trường xe sang bùng nổ, phát triển mạnh, bên cạnh mức giá hợp lý, xe sang ở Việt Nam cần phù hợp với tiêu chuẩn toàn cầu để người tiêu dùng được tận hưởng chiếc xe đúng với giá tiền bỏ ra.

Đã đến thời xe sang tại Việt Nam bán phá giá, xuống nước để chống ế? - 2
Dưới áp lực cạnh tranh và cắt bỏ thuế nhập khẩu xe từ EU, xe cao cấp, xe sang ở Việt Nam có thể phải hạ giá để chinh phục khách hàng Việt Nam bắt đầu từ giai đoạn cuối năm 2020 trở đi

Hiện, bên cạnh các mẫu xe toàn cầu, các hãng xe đều có chính sách thị trường hóa mẫu xe nhằm cắt giảm, lược bỏ tiện ích. Các hãng thường giải thích thay đổi này phù hợp với khí hậu, thói quen sử dụng và điều kiện đường xá tại mỗi quốc gia.

Xu hướng bình dân hóa xe sang do bỏ thuế nhập

Tuy nhiên, các gói công nghệ, trang bị đủ tiện ích bởi xe sang tại Việt Nam đã có giá cao hơn nhiều so với các nước khác, để sở hữu xe này, người tiêu dùng Việt đã chịu trả mức tiền lớn hơn so với ở nước ngoài.

Chính vì điều này, các hãng xe nhập, lắp ráp trong nước cần chú ý đến yếu tố này để đảm bảo người Việt không phải đi xe mới nhưng thực tế là đời công nghệ cũ so với thế giới.

Theo báo cáo của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), trong năm 2019, doanh số xe SUV, Crossover và MPV tại Việt Nam tăng rất mạnh so với cùng kỳ năm trước.

Với xe SUV, từ mức chỉ bán được 35.500 chiếc năm 2018, đến 2019, dòng xe này có doanh số trên 56.800 chiếc, tỷ lệ tăng doanh số bán ra hơn 60%, tương ứng mức tăng 21.300 chiếc/năm. Tương tự, mẫu MPV năm 2018 chỉ bán được hơn 20.200 chiếc, năm 2019 đã đạt con số gần 40.000 chiếc, tăng doanh số gần gấp đôi.

Các mẫu xe SUV, Crossover hay MPV có đặc điểm chung giá thành cao hơn so với sedan phổ thông, hatchback nên sự tăng trưởng doanh số bán ra cho thấy thị trường và người tiêu dùng Việt đang quan tâm nhiều tới các mẫu xe này.

Với mức giá từ 800 triệu đồng đến khoảng gần 2 tỷ đồng, các mẫu xe gầm cao phổ thông tại Việt Nam đang hút ngày càng nhiều khách hàng mua xe là giới trung lưu. Ngoài ra, các mẫu xe SUV, Crossover hay MPV hiện có thiết kế hiện đại, bắt mắt, trang bị công nghệ và options đầy đủ... đã lôi kéo không ít khách hàng của xe sang, cao cấp đến với các xe phổ thông, và điều này khiến thị phần của các hãng xe cao cấp, xe sang mất dần doanh số.

Một nguyên nhân khiến giá các mẫu xe sang thời gian tới có thể giảm mạnh là Việt Nam và EU đã có Hiệp định EVFTA; theo đó, xe sang Đức, Pháp, Ý vào Việt Nam sẽ được bỏ thuế nhập khẩu từ 70-75% trong vòng 10 năm tới.

Với mức giảm bình quân từ 7-8%/ mỗi năm, các loại xe sang nhập EU vào Việt Nam có cơ hội giảm giá từ năm sau, thậm chí năm 2030, khi thuế nhập khẩu được cắt bỏ hoàn toàn chắc chắn các dòng xe sang sẽ được bình dân hóa và thị phần dòng xe này sẽ hứa hẹn gia tăng mạnh mẽ hơn.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,500 ▲2500K 118,000 ▲2500K
AVPL/SJC HCM 115,500 ▲2500K 118,000 ▲2500K
AVPL/SJC ĐN 115,500 ▲2500K 118,000 ▲2500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,430 ▲400K 11,660 ▲400K
Nguyên liệu 999 - HN 11,420 ▲400K 11,650 ▲400K
Cập nhật: 17/04/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 ▲3500K 117.000 ▲3400K
TPHCM - SJC 115.500 ▲2500K 118.000 ▲2500K
Hà Nội - PNJ 114.000 ▲3500K 117.000 ▲3400K
Hà Nội - SJC 115.500 ▲2500K 118.000 ▲2500K
Đà Nẵng - PNJ 114.000 ▲3500K 117.000 ▲3400K
Đà Nẵng - SJC 115.500 ▲2500K 118.000 ▲2500K
Miền Tây - PNJ 114.000 ▲3500K 117.000 ▲3400K
Miền Tây - SJC 115.500 ▲2500K 118.000 ▲2500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 ▲3500K 117.000 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▲2500K 118.000 ▲2500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▲2500K 118.000 ▲2500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000 ▲3500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 ▲3500K 117.000 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 ▲3500K 117.000 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 ▲3000K 116.000 ▲3000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 ▲2990K 115.880 ▲2990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 ▲2970K 115.170 ▲2970K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 ▲2970K 114.940 ▲2970K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.700 ▼1700K 87.150 ▲2250K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 61.560 ▼2200K 68.010 ▲1750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.960 ▼2700K 48.410 ▲1250K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 ▲2750K 106.360 ▲2750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 64.460 ▼2120K 70.910 ▲1830K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 69.100 ▼2000K 75.550 ▲1950K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.580 ▼1910K 79.030 ▲2040K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 37.200 ▼2830K 43.650 ▲1120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.980 ▼2960K 38.430 ▲990K
Cập nhật: 17/04/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,220 ▲400K 11,740 ▲400K
Trang sức 99.9 11,210 ▲400K 11,730 ▲400K
NL 99.99 11,220 ▲400K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,220 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,450 ▲400K 11,750 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,450 ▲400K 11,750 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,450 ▲400K 11,750 ▲400K
Miếng SJC Thái Bình 11,550 ▲250K 11,800 ▲250K
Miếng SJC Nghệ An 11,550 ▲250K 11,800 ▲250K
Miếng SJC Hà Nội 11,550 ▲250K 11,800 ▲250K
Cập nhật: 17/04/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 15917 16183 16775
CAD 18104 18379 19009
CHF 31026 31404 32063
CNY 0 3358 3600
EUR 28804 29072 30120
GBP 33472 33859 34810
HKD 0 3203 3407
JPY 174 178 185
KRW 0 0 18
NZD 0 15036 15637
SGD 19181 19460 19996
THB 692 756 810
USD (1,2) 25620 0 0
USD (5,10,20) 25658 0 0
USD (50,100) 25686 25720 26075
Cập nhật: 17/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,700 25,700 26,060
USD(1-2-5) 24,672 - -
USD(10-20) 24,672 - -
GBP 33,771 33,862 34,760
HKD 3,275 3,285 3,385
CHF 31,163 31,260 32,137
JPY 177.65 177.97 185.91
THB 740.78 749.93 802.88
AUD 16,175 16,233 16,676
CAD 18,385 18,444 18,941
SGD 19,361 19,422 20,036
SEK - 2,600 2,691
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,872 4,005
NOK - 2,402 2,486
CNY - 3,504 3,599
RUB - - -
NZD 14,943 15,082 15,516
KRW 16.94 17.67 18.97
EUR 28,950 28,973 30,207
TWD 718.59 - 869.97
MYR 5,476.06 - 6,181.7
SAR - 6,780.96 7,137.79
KWD - 82,115 87,344
XAU - - 118,000
Cập nhật: 17/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,710 26,050
EUR 28,853 28,969 30,055
GBP 33,589 33,724 34,691
HKD 3,268 3,281 3,388
CHF 31,069 31,194 32,105
JPY 177.05 177.76 185.18
AUD 16,134 16,199 16,725
SGD 19,360 19,438 19,966
THB 759 762 795
CAD 18,324 18,398 18,912
NZD 15,057 15,564
KRW 17.40 19.19
Cập nhật: 17/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25700 25700 26060
AUD 16097 16197 16765
CAD 18274 18374 18925
CHF 31273 31303 32192
CNY 0 3511.4 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 28968 29068 29943
GBP 33760 33810 34923
HKD 0 3320 0
JPY 178.51 179.01 185.52
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15147 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19332 19462 20196
THB 0 721.9 0
TWD 0 770 0
XAU 11550000 11550000 11800000
XBJ 10500000 10500000 11800000
Cập nhật: 17/04/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,700 25,750 26,050
USD20 25,700 25,750 26,050
USD1 25,700 25,750 26,050
AUD 16,127 16,277 17,348
EUR 29,112 29,262 30,437
CAD 18,246 18,346 19,666
SGD 19,406 19,556 20,033
JPY 178.29 179.79 184.44
GBP 33,847 33,997 34,886
XAU 11,548,000 0 11,802,000
CNY 0 3,393 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 17/04/2025 21:00