Đã đến thời xe sang tại Việt Nam bán "phá giá, xuống nước" để chống ế?

07:02 | 10/09/2020

218 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau cú sốc xe sang giảm giá vài trăm triệu đến cả tỷ đồng/chiếc, nhiều khách hàng và dân buôn xe cho rằng thị trường xe sang Việt bắt đầu đến giai đoạn "phá giá" để chạy doanh số.

Lâu nay, thị trường xe sang Việt Nam vẫn chủ yếu là sân chơi thuộc về các hãng như BMW, Audi, Mercedes..., gần đây có các hãng xe nhập như Volvo, Range Rover. Sự bùng nổ về tăng trưởng kinh tế, tầng lớp thị dân gia tăng và đặc biệt trung lưu tăng nhanh đã khiến thị trường ngách cho xe sang nở rộ, trở thành miếng bánh mà bất cứ hãng xe, doanh nghiệp nào tham gia và kiếm tìm lợi nhuận.

Đã đến thời xe sang tại Việt Nam bán phá giá, xuống nước để chống ế? - 1
Nhiều mẫu xe thuộc thương hiệu xe sang tại Việt Nam đã giảm giá mạnh, điều chưa từng có tiền lệ

Trong vòng 2 năm trở lại đây, một loạt mẫu xe sang giảm giá vài trăm triệu đồng đến cả tỷ đồng đã được ghi nhận.

Xe sang buộc phải giảm giá để chống ế

BMW X7 giảm từ 700 triệu đồng đến 1,4 tỷ đồng/chiếc, giá bán của hãng và giá đại lý đang có sự chênh lệch rõ rệt. Mẫu Range Rover Autobiography LWB cũng được doanh nghiệp xe nhập giảm hơn 260 triệu đồng/chiếc. Mẫu BMW 7 series đời 2019 hay Q5, Q7 của Audi tại Việt Nam cũng được giảm giá bán từ 100 - 300 triệu đồng tại các đại lý.

Đại diện của Ford là Explorer từ năm 2019 đến nay giảm giá từ 2,3 tỷ đồng xuống 1,8 tỷ đồng, giảm gần nửa tỷ đồng so với trước đây.

Ngoài giảm giá, các mẫu xe thuộc phân khúc cao cấp tầm giá từ 1,5 đến dưới 3 tỷ đồng tại Việt Nam cũng đang có rất nhiều mẫu có xu hướng giảm giá hoặc ra mẫu xe mới với công nghệ và tiện nghi tràn trề.

Đơn cử như VinFast LuxSA2.0 các bản đều giảm giá mạnh với hàng trăm triệu đồng; các mẫu BMW 5 Series đời 2020 hoặc BMW X3 đời 2020 cũng có sự giảm giá mạnh hoặc bản nâng cấp nội thất cao hơn so với các mẫu đời cũ.

Theo một số chuyên gia về xe hơi cũng như người kinh doanh xe, thị trường xe Việt vài năm trở lại đây đã xuất hiện xu hướng cải tổ về giá và đa dạng về mẫu xe.

Ở phân khúc xe giá rẻ, xe phổ thông đang có rất nhiều mẫu mã, thương hiệu để người tiêu dùng lựa chọn hơn thay vì chỉ có vài mẫu như trước kia.

Thị trường xe cao cấp, xe sang vẫn chứng kiến sự cải tổ chậm hơn. Giá vẫn khá cao, các loại xe không phong phú và vẫn có nhiều dư địa để cải thiện. Tuy nhiên, với sự chủ động giảm giá của Range Rover, BMW cho các mẫu xe sang, cho thấy thị trường kỳ vọng sắp tới sẽ có làn sóng giảm giá xe sang.

Chuyên gia về ô tô, ông Nguyễn Minh Đồng cho rằng, xe sang Việt Nam có thị trường ngách với biên lợi nhuận lớn. Với dân số trẻ, tỷ lệ thị dân tăng nhanh, tầng lớp trung lưu, người giàu trẻ Việt đang tăng mạnh, đây có thể coi là thị trường béo bở cho các hãng, doanh nghiệp tranh giành.

Tuy nhiên, ông này cũng cho rằng, để thị trường xe sang bùng nổ, phát triển mạnh, bên cạnh mức giá hợp lý, xe sang ở Việt Nam cần phù hợp với tiêu chuẩn toàn cầu để người tiêu dùng được tận hưởng chiếc xe đúng với giá tiền bỏ ra.

Đã đến thời xe sang tại Việt Nam bán phá giá, xuống nước để chống ế? - 2
Dưới áp lực cạnh tranh và cắt bỏ thuế nhập khẩu xe từ EU, xe cao cấp, xe sang ở Việt Nam có thể phải hạ giá để chinh phục khách hàng Việt Nam bắt đầu từ giai đoạn cuối năm 2020 trở đi

Hiện, bên cạnh các mẫu xe toàn cầu, các hãng xe đều có chính sách thị trường hóa mẫu xe nhằm cắt giảm, lược bỏ tiện ích. Các hãng thường giải thích thay đổi này phù hợp với khí hậu, thói quen sử dụng và điều kiện đường xá tại mỗi quốc gia.

Xu hướng bình dân hóa xe sang do bỏ thuế nhập

Tuy nhiên, các gói công nghệ, trang bị đủ tiện ích bởi xe sang tại Việt Nam đã có giá cao hơn nhiều so với các nước khác, để sở hữu xe này, người tiêu dùng Việt đã chịu trả mức tiền lớn hơn so với ở nước ngoài.

Chính vì điều này, các hãng xe nhập, lắp ráp trong nước cần chú ý đến yếu tố này để đảm bảo người Việt không phải đi xe mới nhưng thực tế là đời công nghệ cũ so với thế giới.

Theo báo cáo của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), trong năm 2019, doanh số xe SUV, Crossover và MPV tại Việt Nam tăng rất mạnh so với cùng kỳ năm trước.

Với xe SUV, từ mức chỉ bán được 35.500 chiếc năm 2018, đến 2019, dòng xe này có doanh số trên 56.800 chiếc, tỷ lệ tăng doanh số bán ra hơn 60%, tương ứng mức tăng 21.300 chiếc/năm. Tương tự, mẫu MPV năm 2018 chỉ bán được hơn 20.200 chiếc, năm 2019 đã đạt con số gần 40.000 chiếc, tăng doanh số gần gấp đôi.

Các mẫu xe SUV, Crossover hay MPV có đặc điểm chung giá thành cao hơn so với sedan phổ thông, hatchback nên sự tăng trưởng doanh số bán ra cho thấy thị trường và người tiêu dùng Việt đang quan tâm nhiều tới các mẫu xe này.

Với mức giá từ 800 triệu đồng đến khoảng gần 2 tỷ đồng, các mẫu xe gầm cao phổ thông tại Việt Nam đang hút ngày càng nhiều khách hàng mua xe là giới trung lưu. Ngoài ra, các mẫu xe SUV, Crossover hay MPV hiện có thiết kế hiện đại, bắt mắt, trang bị công nghệ và options đầy đủ... đã lôi kéo không ít khách hàng của xe sang, cao cấp đến với các xe phổ thông, và điều này khiến thị phần của các hãng xe cao cấp, xe sang mất dần doanh số.

Một nguyên nhân khiến giá các mẫu xe sang thời gian tới có thể giảm mạnh là Việt Nam và EU đã có Hiệp định EVFTA; theo đó, xe sang Đức, Pháp, Ý vào Việt Nam sẽ được bỏ thuế nhập khẩu từ 70-75% trong vòng 10 năm tới.

Với mức giảm bình quân từ 7-8%/ mỗi năm, các loại xe sang nhập EU vào Việt Nam có cơ hội giảm giá từ năm sau, thậm chí năm 2030, khi thuế nhập khẩu được cắt bỏ hoàn toàn chắc chắn các dòng xe sang sẽ được bình dân hóa và thị phần dòng xe này sẽ hứa hẹn gia tăng mạnh mẽ hơn.

Theo Dân trí

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 75,600
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 75,500
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,650
Trang sức 99.9 7,425 7,640
NL 99.99 7,430
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 7,680
Miếng SJC Thái Bình 8,210 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,210 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,210 8,400
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 19/04/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,005 16,025 16,625
CAD 18,145 18,155 18,855
CHF 27,364 27,384 28,334
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,538 3,708
EUR #26,211 26,421 27,711
GBP 31,064 31,074 32,244
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.22 160.37 169.92
KRW 16.21 16.41 20.21
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,220 2,340
NZD 14,747 14,757 15,337
SEK - 2,244 2,379
SGD 18,103 18,113 18,913
THB 637.8 677.8 705.8
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 01:02