Cước vận tải kỷ lục đẩy giá mọi hàng hóa từ cà phê đến đồ chơi tăng nóng

11:38 | 14/06/2021

588 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Giá vận chuyển hàng hóa bằng đường biển tăng phi mã trên toàn cầu có thể ảnh hưởng tới túi tiền của người tiêu dùng sớm hơn tưởng tượng, từ cốc

Nguy cơ lạm phát tăng tốc toàn cầu

Giá vận chuyển một container hàng hóa dài hơn 12 m bằng đường biển từ Thượng Hải, Trung Quốc tới Rotterdam, Hà Lan đang ở mức kỷ lục 10.522 USD, tăng 547% so với mức giá trung bình theo mùa của 5 năm qua, theo số liệu của hãng tàu Drewry Shipping.

Với hơn 80% hàng hóa giao dịch được vận chuyển bằng đường biển, tình trạng chi phí tăng có nguy cơ đẩy giá mọi thứ lên cao, từ đồ chơi, đồ nội thất, phụ tùng ôtô tới cà phê, đường và cá cơm... Và điều này làm gia tăng lo ngại về nguy cơ lạm phát tăng tốc trên toàn cầu.

"Trong 40 năm kinh doanh đồ chơi, tôi chưa bao giờ thấy bối cảnh nhiều thách thức như vậy đứng từ quan điểm về giá cả", Gary Grant - nhà sáng lập kiêm chủ tịch điều hành chuỗi cửa hàng đồ chơi The Entertainer của Anh - cho biết. Ông đã phải ngừng nhập khẩu gấu bông cỡ đại từ Trung Quốc vì giá bán lẻ của chúng sẽ phải tăng gấp đôi khi cộng thêm phần tăng trong chi phí vận chuyển.

Cước vận tải kỷ lục đẩy giá mọi hàng hóa từ cà phê đến đồ chơi tăng nóng - 1
Cước vận tải biển tăng mạnh trong thời gian gần đây (Ảnh: Bloomberg).

Sự kết hợp của các yếu tố như nhu cầu tăng mạnh, thiếu hụt container, cảng chật ních hàng trong khi có quá ít tàu và công nhân làm việc ở bến, khiến công suất vận tải trên mọi tuyến đường hàng hóa bị giảm sút.

Đợt bùng phát dịch Covid-19 gần đây gần đây ở các trung tâm xuất khẩu lớn của châu Á như Trung Quốc khiến vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Nỗi đau được cảm nhận rõ ràng nhất đối với các tuyến đường dài, ví dụ phí vận chuyển hàng từ Thượng Hải tới Rotterdam cao hơn 67% so với tới Bờ Tây Mỹ.

Chi phí vận chuyển thường bị coi là có tác động không đáng kể đến lạm phát vì nó chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi phí. Tuy nhiên, với tình trạng tăng cước mạnh như hiện nay, một số nhà kinh tế cũng bắt đầu lưu ý hơn. HSBC Holdings ước tính việc phí vận chuyển tăng 20% trong năm qua có thể khiến giá sản xuất trong khu vực đồng tiền chung euro tăng 2%.

Ở cấp độ bán lẻ, các nhà cung cấp phải đối mặt với 3 lựa chọn là dừng buôn bán, tăng giá hoặc chấp nhận phần chi phí tăng rồi chuyển cho người tiêu dùng. Tất cả đều vì hàng hóa ngày càng trở nên đắt đỏ, theo ông Jordi Espin - giám đốc quan hệ chiến lược tại Liên minh các chủ tàu châu Âu.

"Trên thực tế, phần tăng về chi phí này đang được chuyển sang cho người tiêu dùng", ông nói.

Chi phí vận chuyển cao tác động lên giá cả hàng hóa theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, châu Âu phần lớn ngừng nhập cá cơm từ Peru do chi phí vận chuyển tăng, khiến mặt hàng này không thể cạnh tranh được với nguồn hàng có sẵn trong nước, ông Espin cho biết. Bên cạnh đó, những người trồng ô liu ở châu Âu không còn đủ khả năng để xuất khẩu sang Mỹ vì chi phí vận chuyển cao. Hoạt động vận chuyển cà phê arabica và robusta từ châu Á cũng bị ảnh hưởng lớn.

Doanh nghiệp châu Âu dùng... xe tải để nhập hàng từ Trung Quốc

Rất ít chuyên gia trong ngành dự đoán giá thuê container sẽ giảm trong tương lai gần. Công ty vận tải biển CMA CGM của Pháp đưa ra dự báo rằng nhu cầu vận chuyển hàng tiêu dùng bền vững sẽ tiếp tục tăng trong cả năm nay.

Cước vận tải biển thậm chí đắt đỏ hơn đối với những công ty mua các mặt hàng cồng kềnh nhưng có giá trị thấp như đồ chơi và đồ nội thất. Ông Grant của The Entertainer nói: "Nếu chúng là những sản phẩm cồng kềnh, tức là bạn không thể chứa được nhiều sản phẩm trong một container và việc này sẽ tác động lớn đến giá của hàng hóa sau khi dỡ hàng".

Đối với một số nhà sản xuất đồ nội thất giá trị thấp hơn, cước vận chuyển hiện chiếm khoảng 62% giá bán lẻ, Alan Murphy - Giám đốc điều hành của công ty tư vấn Sea-Intelligence cho hay.

Các công ty vẫn đang cố gắng hết sức để giải quyết vấn đề chi phí vận tải ngày càng tăng này. Ông Philip Damas - nhà sáng lập kiêm giám đốc vận hành của Drewry Supply Chain Advisors cho hay, một số đã ngừng xuất khẩu đến một vài thị trường trong khi những công ty khác thử tìm kiếm nguồn hàng hoặc nguyên vật liệu ở gần hơn để cắt giảm chi phí. "Tình trạng này càng kéo dài thì sẽ càng có nhiều công ty phải tái cấu trúc để rút ngắn chuỗi cung ứng của họ. Rất ít công ty có thể chấp nhận mức tăng 15% trong tổng chi phí giao hàng đối với những sản phẩm được giao dịch trên thị trường quốc tế".

Một số doanh nghiệp ở châu Âu thậm chí đang sử dụng các biện pháp cực đoan như sử dụng các đoàn xe tải để nhập các sản phẩm, bao gồm phụ tùng ô tô, xe đạp và xe tay ga, từ Trung Quốc.

Đến nay, các ngân hàng trung ương vẫn coi nhẹ hiện tượng này, vì họ cho rằng giá tiêu dùng tăng xuất phát từ những điểm tắc nghẽn trên chuỗi cung ứng mà yếu tố này sẽ không kéo dài. Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Christine Lagarde từng nhận định rằng những nút thắt trong chuỗi cung ứng sẽ đẩy giá sản xuất lên cao và tỷ lệ lạm phát dự kiến sẽ tăng trong nửa cuối năm nay, nhưng tác động của nó sẽ dần mờ nhạt.

Một số cơ quan khác lại cho rằng cước vận tải biển chỉ chiếm một phần nhỏ trong giá cuối cùng của một mặt hàng sản xuất. Theo ước tính của nhóm chuyên gia tại Goldman Sachs, tỷ lệ này chưa tới 1% nhưng đó là khi cước vận tải trên tuyến hàng hóa Trung Quốc - châu Âu chỉ bằng một nửa hiện tại.

Bên cạnh đó, các công ty thường ký hợp đồng theo năm với các hãng tàu, vì vậy, giá cước trên thực tế có thể thấp hơn nhiều so với giá giao ngay.

Trong bối cảnh nhiều quốc gia gỡ lệnh phong tỏa, người tiêu dùng có khả năng sẽ chuyển sang tiêu thụ dịch vụ thay vì hàng hóa. Tuy nhiên, rủi ro cước vận tải tiếp tục tăng vẫn tồn tại, đặc biệt trong bối cảnh hoạt động vận chuyển đang bị gián đoạn như hiện nay và các nhà sản xuất sẵn sàng chuyển phần chi phí tăng lên đó sang người tiêu dùng.

Theo Dân trí

Phương án nào thay thế khi cầu Long Biên xuống cấp nghiêm trọng?Phương án nào thay thế khi cầu Long Biên xuống cấp nghiêm trọng?
Bộ Giao thông Vận tải đề nghị xử lý website giả mạo trang giấy phép lái xeBộ Giao thông Vận tải đề nghị xử lý website giả mạo trang giấy phép lái xe
Bộ GTVT tạo điều kiện lưu thông hàng hóa, đồng ý dừng thêm 2 đường bay nội địaBộ GTVT tạo điều kiện lưu thông hàng hóa, đồng ý dừng thêm 2 đường bay nội địa

dantri.com.vn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 05:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 05:45