CTCK Dầu khí: Cơ hội đầu tư nửa cuối năm 2022 đến từ nhóm doanh nghiệp thuộc ngành nghề phòng thủ

13:45 | 22/06/2022

7,505 lượt xem
|
(PetroTimes) - Trong Báo cáo chiến lược 6 tháng cuối năm 2022 vừa mới công bố của Công ty Chứng khoán Dầu khí (PSI), các chuyên gia đánh giá, thị trường chứng khoán Việt Nam nhiều khả năng sẽ tiếp tục những nhịp điều chỉnh chung theo thị trường thế giới, tuy nhiên sau đó sẽ tích lũy phục hồi.

Điểm sáng vĩ mô

Báo cáo đánh giá, Việt Nam khả năng cao có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6 - 6,5% trong năm 2022 nhờ hoạt động xuất khẩu dẫn dắt tăng trưởng kinh tế với đầu tàu là các doanh nghiệp FDI.

Cùng với đó là sự phục hồi mạnh mẽ của nhóm ngành dịch vụ du lịch, ăn uống sau khi Bộ Y tế bỏ yêu cầu xét nghiệm Covid-19 đối với người nhập cảnh và xu hướng “mua sắm trả thù” trên cơ sở kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng dương trong 2 năm diễn ra dịch bệnh.

PSI kỳ vọng việc đẩy nhanh giải ngân gói hỗ trợ kinh tế xã hội trị giá 350 nghìn tỷ đồng sẽ thúc đẩy nhiều ngành kinh tế trọng yếu và đầu tư công, đây sẽ là động lực thúc đẩy cho tăng trưởng bên cạnh tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình.

Rủi ro tiềm ẩn

So với Mỹ và châu Âu, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam vẫn ở mức rất thấp nhờ khả năng chủ động được các mặt hàng thiết yếu. Thêm vào đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa điều chỉnh lãi suất điều hành từ đầu năm tới nay, như vậy, Việt Nam còn nhiều dư địa để nâng lãi suất giúp kiềm chế đà tăng của lạm phát. Dù vậy, PSI dự báo CPI của Việt Nam năm 2022 sẽ tăng trên 5%, cao hơn mục tiêu 4% của Quốc hội. Lãi suất điều hành có thể sẽ được tăng nhẹ trong nửa cuối của năm 2022.

Thông tư 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực kể từ 1/7/2022 sẽ khiến các ngân hàng phải đánh giá lại các khoản nợ đang được cơ cấu lại trong 2 năm qua. Tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng được PSI đánh giá là sẽ tăng nhanh do nhiều doanh nghiệp đã phá sản do dịch Covid-19.

Bên cạnh đó, tiến độ giải ngân các gói đầu tư công và hỗ trợ tài khóa nếu không được đẩy nhanh sẽ có thể làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế, nhất là khi lạm phát tăng cao hơn mức thu nhập khả dụng thực tế của người dân, ảnh hưởng tới tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình, tác động tiêu cực tới sản xuất và đầu tư.

Nhóm cổ phiếu ngành năng lượng có nhiều triển vọng tăng trưởng
Nhóm cổ phiếu ngành năng lượng được đánh giá có nhiều triển vọng tăng trưởng

Thị trường chứng khoán 6 tháng cuối năm 2022

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến nhịp điều chỉnh mạnh của chỉ số cùng sự “cạn kiệt” của thanh khoản trong tháng 4 và 5. VN-Index sau khi “rơi” hơn 300 điểm kể từ đỉnh lịch sử 1.528,57 điểm, đã quay trở lại vùng đỉnh quan trọng cũ 1.200 điểm, tương ứng với mức P/E 13,1 (trung bình 10 năm - 1SD), thấp hơn nhiều mức trung bình 10 năm.

Trong khi đó, các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán vẫn tăng trưởng 29% doanh thu và 32% về lợi nhuận trong Quý I/2022. PSI kỳ vọng, đà tăng trưởng này sẽ tiếp tục được duy trì trong 6 tháng cuối năm 2022 với động lực tăng trưởng chính đến từ hoạt động xuất khẩu, hàng tiêu dùng trong nước và các chính sách tài khóa hỗ trợ nền kinh tế của Chính phủ.

Lạm phát tiếp tục là rủi ro chính đối với nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, với khả năng tự sản xuất đa phần hàng hóa thiết yếu, Việt Nam sẽ hạn chế được việc phải nhập khẩu lạm phát từ thế giới.

Rủi ro từ thị trường thế giới với lo ngại đến từ cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine và lệnh phong tỏa ở Trung Quốc gây gián đoạn chuỗi cung ứng và “bóng ma” đình lạm (Stagflation) - một trạng thái kinh tế hiếm hoi với sự kết hợp giữa cả lạm phát cao, thất nghiệp cao và tăng trưởng thấp đe dọa đến 2 khu vực kinh tế trụ cột của thế giới đó là Mỹ và EU, sẽ khiến cho thị trường chứng khoán tiếp tục giảm mạnh hơn nữa.

Lựa chọn cổ phiếu để đầu tư

Báo cáo chiến lược của PSI nhận định, cơ hội đầu tư được kỳ vọng trong nửa cuối năm 2022 sẽ đến từ nhóm doanh nghiệp thuộc ngành nghề phòng thủ, những nhóm ngành năng lượng, tiêu dùng với đặc tính thiết yếu, ít biến động so với chu kỳ kinh tế và không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi lạm phát.

Ngành Dầu khí - Giá dầu tiếp tục neo cao từ sự thiếu hụt nguồn cung

Nguồn cung thiếu hụt từ Nga là nhân tố chính tạo áp lực tăng giá dầu thô thế giới ở hiện tại. Giá dầu tăng mạnh là một cơ hội với nhóm cổ phiếu này, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp dịch vụ, phân phối và chế biến dầu khí.

Trong khi đó, OPEC vẫn đang thận trọng với mức tăng sản lượng.

Nguồn: Bloomberg, EIA, PSI tổng hợp
Nguồn: Bloomberg, EIA, PSI tổng hợp

Giá dầu được dự báo sẽ tiếp tục neo cao trong nửa cuối năm. Theo dự báo của Cơ quan thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), giá dầu có thể đạt trung bình 107 USD/thùng trong năm 2022, trong bối cảnh: nguồn cung từ OPEC+ không đủ để bù đắp phần thiếu hụt từ cuộc chiến Nga - Ukraine (ước tính gần 3 triệu thùng/ngày), do chính sách sản lượng thận trọng của nhóm này.

Cũng do ảnh hưởng cuộc chiến, giá khí đốt thế giới cũng chịu tác động từ việc cắt giảm nguồn cung từ Nga, đặc biết là khi các biện pháp trừng phạt từ Mỹ và châu Âu tiếp tục leo thang.

Ngành điện - Phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch

Với kịch bản cơ sở, nhu cầu sử dụng điện sẽ hồi phục mạnh mẽ từ việc mở cửa nền kinh tế sau đại dịch giúp gia tăng mức tiêu thụ điện. Đặc biệt năm 2022, điều kiện thủy văn tương đối thuận lợi sẽ giúp nhiều doanh nghiệp thủy điện có lợi nhuận tốt.

Nguồn: PGV, Bloomberg, PSI tổng hợp
Nguồn: PGV, Bloomberg, PSI tổng hợp

Theo dự báo, sản lượng điện năm 2022 sẽ tăng trưởng ở mức 8,2 - 12,4%. Tính đến hết tháng 5/2022, sản lượng điện thương phẩm toàn quốc đạt 95,31 tỷ kWh, tăng 5,3% so với cùng kỳ. PSI kỳ vọng tốc độ tăng trưởng sẽ cao hơn trong thời gian tới do nền kinh tế phục hồi tích cực sau dịch Covid-19.

Cũng trong báo cáo, thủy điện là điểm sáng cho năm 2022. Sản lượng thủy điện tính từ đầu năm 2022 đạt 85,65 tỷ kWh ( tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước). Cụ thể, từ quý II/2022 bắt đầu vào mùa phát điện của thủy điện cộng thêm mùa mưa năm 2022 đến sớm và được dự báo lượng mưa phổ biến trên cả nước sẽ cao hơn trung bình nhiều năm trước. Do đó, PSI dự đoán doanh thu của các nhà máy thủy điện sẽ tăng mạnh mẽ trong nửa cuối năm 2022.

PSI đánh giá năng lượng tái tạo sẽ chững lại sau thời kỳ bùng nổ. Các chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, quan trọng nhất là cơ chế giá FIT đã hết hạn và thời điểm ban hành các cơ chế giá mới cũng không được đề cập. Năng lượng tái tạo sẽ tiếp tục tăng tỷ trọng trong tổng sản lượng điện, tuy nhiên việc phát triển thêm nguồn điện mới sẽ chững lại cho tới khi các quy định tiếp theo được ban hành.

Ngành phân bón - Hưởng lợi từ giá phân bón tăng mạnh

Nhu cầu tích trữ lương thực cùng giá phân bón tăng cao trong bối cảnh xung đột giữa Nga - Ukraine kéo dài, tiếp tục là động lực tăng trưởng ngắn hạn cho các doanh nghiệp hóa chất phân bón.

Cụ thể, nguồn cung khan hiếm do đứt gãy chuỗi cung ứng phân bón toàn cầu khiến giá phân bón tăng mạnh. Vào cuối năm 2021, Trung Quốc và Nga - hai trong số ba quốc gia xuất khẩu phân bón nhiều nhất thế giới, đã ra quyết định tạm ngừng xuất khẩu phân bón để ổn định nguồn cung trong nước và kiểm soát lạm phát. Sản lượng sản xuất của Nga chiếm khoảng 30% tổng nguồn cung phân bón trên toàn thế giới.

Hơn thế, Nga còn là nguồn cung của 70% nguyên liệu đầu vào để sản xuất phân bón tại châu Âu, vì vậy việc các lệnh trừng phạt áp đặt lên Nga trực tiếp khiến cho giá phân bón thế giới biến động mạnh mẽ. Giá phân bón cũng cao hơn 40% so với thời điểm một tháng trước khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine hôm 24/2.

Nhìn vào thị trường trong nước, giá phân bón liên tục tăng trong 2 năm qua và tiếp tục duy trì ở mức cao. Giá phân bón tăng mạnh làm cho nhu cầu tiêu thụ trong nước sụt giảm, doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hơn. Trong quý I/2022, tổng sản lượng tiêu thụ không đổi so với cùng kỳ năm trước, trong khi sản lượng xuất khẩu đạt 510.000 tấn, tăng 47% so với cùng kỳ và tăng 31% so với quý IV/2021.

Minh Châu

PSI hoàn thành vượt mức kế hoạch quý I/2022, thúc đẩy đầu tư công nghệPSI hoàn thành vượt mức kế hoạch quý I/2022, thúc đẩy đầu tư công nghệ
Tăng giá, lạm phát và giải mã đằng sau chuyện Tăng giá, lạm phát và giải mã đằng sau chuyện "giá đó thì lên tivi mua"
Bộ Tài chính thực hiện nhiều giải pháp bảo vệ nhà đầu tưBộ Tài chính thực hiện nhiều giải pháp bảo vệ nhà đầu tư
Đề nghị lưu ý các bất ổn của thị trường tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu...Đề nghị lưu ý các bất ổn của thị trường tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu...
Chứng khoán 14/6: VN-Index phục hồi nhẹ với sự dẫn dắt của nhóm Dầu khíChứng khoán 14/6: VN-Index phục hồi nhẹ với sự dẫn dắt của nhóm Dầu khí
Chứng khoán 16/6: VN-Index tăng gần 23 điểm, nhóm Dầu khí xanh cùng thị trườngChứng khoán 16/6: VN-Index tăng gần 23 điểm, nhóm Dầu khí xanh cùng thị trường

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Hà Nội - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đà Nẵng - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Miền Tây - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Tây Nguyên - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 ▲2600K 151,700 ▲2600K
Cập nhật: 25/11/2025 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Nghệ An 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
Miếng SJC Thái Bình 15,090 ▲250K 15,290 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 ▲250K 15,250 ▲250K
NL 99.99 14,230 ▲170K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230 ▲170K
Trang sức 99.9 14,540 ▲250K 15,140 ▲250K
Trang sức 99.99 14,550 ▲250K 15,150 ▲250K
Cập nhật: 25/11/2025 18:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 ▲25K 15,292 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 ▲25K 15,293 ▲250K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 ▲2K 1,505 ▲20K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 ▲2K 1,506 ▲20K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 ▲20K 1,495 ▲20K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 ▲198K 14,802 ▲198K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 ▲1500K 112,286 ▲1500K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 ▲136K 10,182 ▲136K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 ▲1220K 91,354 ▲1220K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 ▲1166K 87,317 ▲1166K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 ▲834K 62,498 ▲834K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 ▲25K 1,529 ▲25K
Cập nhật: 25/11/2025 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16499 16767 17345
CAD 18147 18423 19038
CHF 31918 32299 32941
CNY 0 3470 3830
EUR 29777 30049 31077
GBP 33826 34215 35141
HKD 0 3260 3462
JPY 161 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14471 15058
SGD 19703 19984 20508
THB 731 794 848
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 25/11/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 25/11/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 25/11/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26079 26079 26403
AUD 16682 16782 17705
CAD 18331 18431 19444
CHF 32176 32206 33792
CNY 0 3685.7 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29965 29995 31718
GBP 34129 34179 35940
HKD 0 3390 0
JPY 165.27 165.77 176.29
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14583 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19867 19997 20725
THB 0 760.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 25/11/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 25/11/2025 18:45