Covid-19 bắt đầu đe dọa kinh tế Mỹ

07:06 | 09/03/2020

185 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau Trung Quốc, "bóng ma" suy thoái do Covid-19 tạo ra đã bắt đầu xuất hiện trên đất Mỹ.

Hãng hàng không Southwest Airlines, chủ yếu bay các chặng nội địa Mỹ, cho biết đang chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về nhu cầu đi lại và số lượt hủy chuyến tăng. Trong khi đó, United Airlines khuyến khích nhân viên nghỉ phép không lương vào thời điểm đang giảm lịch bay.

Các nhà hàng, điểm giải trí và bán lẻ các ngành công nghiệp khác dựa trên tiêu dùng và lưu lượng khách hàng tại Mỹ cũng đang nhận ra nguy cơ ảm đạm. "Các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào kinh doanh nhà hàng có thể cần phải đóng cửa tạm thời nếu tình hình tồi tệ hơn", Erik Herrmann, người đứng dầu bộ phận đầu tư lĩnh vực nhà hàng của CapitalSpring nhận định. Theo ông, chỉ mảng phục vụ mua mang đi thì khả năng có lợi do thực khách sợ lây nhiễm nCoV khi ăn tại chỗ.

Nhiều tên tuổi lớn trong các ngành công nghiệp khác nhau cũng bắt đầu có ảnh hưởng. United và Hyatt Hotels đang có kế hoạch ngưng thuê người. General Motors và Nestlé SA hạn chế việc đi lại của nhân viên. Các sự kiện như "South by Southwest", một liên hoan công nghệ, phim ảnh và âm nhạc kéo dài hai tuần tại Austin (Texas), đã bị hủy bỏ.

Facebook và Amazon tuyên bố đóng cửa văn phòng tại Seattle. Trong khi những công nhân công nghệ cao có thể hoạt động tại nhà, các tài xế Uber và cửa hàng sandwich vốn phục vụ họ đối diện khả năng ế ẩm.

"Người lao động không thể làm mọi việc tại nhà, và bạn sẽ thấy việc mất mát một sản lượng mà có thể không bao giờ được tạo ra", bà Diane Swonk, Kinh tế trưởng tại Grant Thornton nhận định, "Bạn không thể tham dự một sự kiện thể thao đã bị hủy và sẽ không thể mua chiếc áo len định mua hồi tháng 3 vào cuối tháng 4", bà nói.

Covid-19 bắt đầu đe dọa kinh tế Mỹ
Sản xuất bên trong một nhà máy tại Mỹ. Ảnh: Zuma Press

Câu hỏi đặt ra là liệu tác động của Covid-19 có lan sang các lĩnh vực khác hay không. Theo Wall Street Journal, các nhà sản xuất đang báo cáo sự gián đoạn nguồn cung, do các nhà máy Trung Quốc ngừng hoạt động. Các doanh nghiệp nhỏ lo ngại về việc sẽ vay thêm tiền để khắc phục nhu cầu chậm lại. Và sự suy thoái kinh tế tạm thời có thể khiến một số công ty nguy cơ vỡ nợ.

Nền kinh tế Mỹ vốn đã có một bước đi vững chắc trước khi Covid-19 lan rộng. Tháng 2/2020, tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất 50 năm và tiền lương tăng. Các báo cáo gần đây cho thấy sa thải ở mức thấp lịch sử, tiêu dùng ổn định, lạm phát thấp và thu nhập hộ gia đình tăng.

Thế rồi, nCoV đến với Mỹ. Mặc dù mức độ thiệt hại về kinh tế hiện không rõ ràng và phụ thuộc khi nào dịch được dập tắt, những dấu hiệu phản ứng đã rõ rệt hơn.

Hoạt động kinh doanh của các nhà cung cấp dịch vụ đã giảm vào tháng 2, lần đầu tiên kể từ tháng 10/2013, theo khảo sát của IHS Markit. Các công ty được khảo sát cho biết sự suy giảm về nhu cầu khách hàng và hoạt động kinh doanh mới từ nước ngoài.

Chỉ số tâm lý người tiêu dùng, công bố bởi Đại học Michigan, đã tăng trong cả tháng 2. Tuy nhiên, một phần năm số người được hỏi trong những ngày kết thúc khảo sát lo lắng hơn về dịch bệnh. Viện Quản lý Cung ứng Mỹ cho biết hoạt động sản xuất hạ nhiệt trong tháng 2, do hiệu ứng Covid-19 làm xáo trộn chuỗi cung ứng.

Tuần qua, các nhà đầu tư Mỹ cũng đã nhận ra những nguy hiểm phía trước. Thị trường trái phiếu, lợi suất kho bạc giảm xuống mức thấp lịch sử. Trong khi đó, giá dầu thô trong phiên 6/3 có phong độ tệ nhất kể từ khủng hoảng tài chính. Trước tình hình này, Fed đã báo hiệu rằng họ có thể cắt giảm lãi suất hơn nữa. Các quan chức thì kêu gọi thêm nhiều biện pháp kích thích tài khóa từ chính phủ.

Hôm 6/3, Tổng thống Donald Trump đã ký một dự luật chi tiêu khẩn cấp trị giá 8,3 tỷ USD để chống lại Covid-19, bao gồm tài trợ cho các nỗ lực phát triển vaccine và hỗ trợ các tiểu bang ứng phó dịch bệnh.

Megan Greene, Chuyên gia kinh tế tại Đại học Harvard Kennedy, cho rằng cần phải có phản ứng tài chính lớn hơn để có thể bảo vệ nền kinh tế, ví dụ như giảm thuế thu nhập và hỗ trợ trực tiếp hơn cho các doanh nghiệp và cá nhân.

Cố vấn kinh tế Nhà Trắng Larry Kudlow cho biết chính quyền đang xem xét các biện pháp kịp thời và nhắm vào việc giúp các công nhân và các ngành bị ảnh hưởng. Việc này bao gồm các biện pháp như hoãn thuế đối với những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất, chủ yếu là khách sạn và du lịch.

Bà Swonk dự báo tăng trưởng kinh tế Mỹ sẽ giảm còn 0,5% trong nửa đầu năm, chậm lại rõ rệt so với mức 2,3% của năm ngoái. Bà cho rằng sa thải tại các nhà hàng, khách sạn và hãng hàng không và tỷ lệ thất nghiệp sẽ leo thang.

"Sẽ có sự suy giảm khá mạnh trong hoạt động kinh tế", bà Megan Greene đồng quan điểm. "Suy giảm kéo dài bao lâu thì tùy thuộc vào dịch tễ học và chúng tôi không có câu trả lời nào cho điều đó", vị chuyên gia thừa nhận.

Theo VNE

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC HCM 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
AVPL/SJC ĐN 116,000 ▲4000K 118,000 ▲4000K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,330 ▲400K 11,610 ▲350K
Nguyên liệu 999 - HN 11,320 ▲400K 11,600 ▲350K
Cập nhật: 21/04/2025 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Hà Nội - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Đà Nẵng - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Miền Tây - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲4000K 118.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.500 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.500 ▲4000K 116.900 ▲3400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 ▲4000K 116.000 ▲4000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 ▲3990K 115.880 ▲3990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 ▲3970K 115.170 ▲3970K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 ▲3960K 114.940 ▲3960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 ▲3000K 87.150 ▲3000K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 ▲2340K 68.010 ▲2340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 ▲1670K 48.410 ▲1670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 ▲3670K 106.360 ▲3670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 ▲2440K 70.910 ▲2440K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 ▲2600K 75.550 ▲2600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 ▲2720K 79.030 ▲2720K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 ▲1500K 43.650 ▲1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 ▲1320K 38.430 ▲1320K
Cập nhật: 21/04/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,170 ▲350K 11,740 ▲400K
Trang sức 99.9 11,160 ▲350K 11,730 ▲400K
NL 99.99 11,170 ▲350K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,170 ▲350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,400 ▲350K 11,750 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,400 ▲350K 11,750 ▲400K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,400 ▲350K 11,750 ▲400K
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲400K 11,800 ▲400K
Cập nhật: 21/04/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16113 16380 16966
CAD 18245 18521 19138
CHF 31418 31797 32453
CNY 0 3358 3600
EUR 29237 29507 30543
GBP 33895 34285 35217
HKD 0 3206 3409
JPY 177 181 187
KRW 0 0 18
NZD 0 15247 15832
SGD 19324 19604 20132
THB 696 760 813
USD (1,2) 25640 0 0
USD (5,10,20) 25678 0 0
USD (50,100) 25706 25740 26085
Cập nhật: 21/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,720 25,720 26,080
USD(1-2-5) 24,691 - -
USD(10-20) 24,691 - -
GBP 34,183 34,276 35,184
HKD 3,278 3,288 3,388
CHF 31,589 31,687 32,559
JPY 180.4 180.72 188.79
THB 745.38 754.59 807.14
AUD 16,333 16,392 16,841
CAD 18,508 18,568 19,067
SGD 19,527 19,587 20,198
SEK - 2,665 2,760
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,435 2,522
CNY - 3,516 3,612
RUB - - -
NZD 15,140 15,281 15,720
KRW 16.97 17.7 19
EUR 29,352 29,376 30,627
TWD 719.72 - 871.33
MYR 5,511.49 - 6,217.45
SAR - 6,786.42 7,144.03
KWD - 82,227 87,434
XAU - - -
Cập nhật: 21/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,700 25,720 26,060
EUR 29,244 29,361 30,452
GBP 34,008 34,145 35,117
HKD 3,270 3,283 3,390
CHF 31,496 31,622 32,544
JPY 179.63 180.35 187.93
AUD 16,241 16,306 16,835
SGD 19,514 19,592 20,127
THB 760 763 797
CAD 18,425 18,499 19,017
NZD 15,221 15,730
KRW 17.46 19.26
Cập nhật: 21/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25710 25710 26070
AUD 16209 16309 16872
CAD 18403 18503 19054
CHF 31630 31660 32550
CNY 0 3516.2 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29352 29452 30325
GBP 34125 34175 35278
HKD 0 3320 0
JPY 181.06 181.56 188.07
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15262 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19465 19595 20326
THB 0 725.8 0
TWD 0 770 0
XAU 11500000 11500000 11900000
XBJ 11200000 11200000 11800000
Cập nhật: 21/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,720 25,770 26,070
USD20 25,720 25,770 26,070
USD1 25,720 25,770 26,070
AUD 16,272 16,422 17,488
EUR 29,499 29,649 30,833
CAD 18,353 18,453 19,775
SGD 19,551 19,701 20,168
JPY 181.05 182.55 187.2
GBP 34,220 34,370 35,215
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,402 0
THB 0 761 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/04/2025 13:00