“Cơn khát” ngũ cốc ở Trung Quốc suy giảm khiến nông dân toàn cầu “lao đao”

16:22 | 16/09/2024

552 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Các nhà kho trên khắp Trung Quốc đang chất đầy ngũ cốc khi cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra ngày càng trầm trọng, khiến những người nông dân trên thế giới “lao đao” trong bối cảnh suy thoái kéo dài đang ảnh hưởng đến một trong những khách hàng lớn nhất của họ.

Căng thẳng đã xuất hiện ở hầu khắp các thị trường toàn cầu. Xuất khẩu lúa mạch của Pháp sang Trung Quốc đã giảm mạnh. Hoa Kỳ vẫn chưa bán hết lượng ngô trước mùa vụ mới. Những người nông dân trồng lúa mì ở Úc lo lắng khi họ chuẩn bị bắt đầu thu hoạch vụ mùa mới trong những tuần tới.

Không có dấu hiệu gì cho thấy điều này sẽ sớm thay đổi. Cùng với đó, sự kết hợp giữa dân số già hóa và nền kinh tế đang "nguội lạnh" báo hiệu điềm xấu cho tương lai. Các thương nhân và nông dân sẽ phải bắt đầu điều chỉnh theo triển vọng nhu cầu rất khác. Ngay cả khi những lo ngại về an ninh lương thực vẫn duy trì nhập khẩu mạnh mẽ trong nhiều năm tới, thì sự tăng trưởng nhanh chóng trong 2 thập kỷ qua có thể đã kết thúc.

“Cơn khát” ngũ cốc ở Trung Quốc suy giảm khiến nông dân toàn cầu “lao đao”
Kho ngũ cốc lúa mạch đen của một trang trại ở Ba Lan.

“Mọi người đang trở nên bi quan hơn về nền kinh tế và nhu cầu”, Ivy Li, một nhà phân tích thị trường hàng hóa tại StoneX có trụ sở tại Thượng Hải cho biết. “Các nhà nhập khẩu sẽ rất thận trọng, mua chậm hơn và theo cách “được ngày nào, xào ngày ấy”. Do sự sụp đổ lòng tin đang diễn ra khắp nơi”.

Bắc Kinh đã có những bước đi nhằm bảo vệ nông dân, yêu cầu các thương nhân hạn chế mua ngô, lúa mạch và hạt cao lương từ nước ngoài - một nỗ lực nhằm giảm bớt tình trạng cung vượt cầu trầm trọng do cơn sốt mua hàng hồi đầu năm, khi các thương nhân “ôm” các lô hàng giá rẻ từ nước ngoài. Cuối cùng, những lô hàng này đã đổ về các cảng của Trung Quốc đúng lúc nhu cầu tiêu thụ giảm. Quốc gia này cũng đã có động thái giảm sử dụng bột đậu nành trong thức ăn chăn nuôi.

Sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc vào đầu thế kỷ đã biến quốc gia này thành một cường quốc tiêu thụ hàng hóa từ ngũ cốc đến kim loại và dầu mỏ, và khiến các quốc gia tăng cường sản lượng để đáp ứng nhu cầu tăng vọt. Ngành nông nghiệp của Trung Quốc tương đối mạnh, nhưng nhu cầu từ 1,4 tỷ dân đã khiến nước này trở thành nước nhập khẩu đậu nành kỷ lục trong nhiều năm và gần đây là một nước lớn nhập khẩu lúa mì.

Đối với mùa vụ bắt đầu vào tháng 9, Hoa Kỳ chỉ bán được 13.400 tấn ngô cho Trung Quốc, so với hơn 564.000 tấn một năm trước đó, theo dữ liệu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Trong suốt giai đoạn 2023-2024, lượng xuất khẩu đã giảm 63%. Lượng hàng xuất khẩu từ Brazil cũng giảm.

Lượng lúa mạch xuất khẩu của Pháp - bao gồm cả mạch nha dùng để làm bia - đang giảm gần 50% trong mùa vụ này từ cảng Rouen so với một năm trước. Đoàn công nghiệp Intercereales đã cử một phái đoàn đến Trung Quốc để tìm hiểu về quy định gần đây của chính quyền nhằm hạn chế nhập khẩu.

Philippe Heusele, Chủ tịch quan hệ quốc tế của Intercereales, cho biết: “Chúng tôi đang bị “tê liệt” trong kinh doanh”.

Mặt hàng chủ chốt mà Trung Quốc sẽ tiếp tục phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu là đậu nành, với Brazil và Hoa Kỳ là những nước hưởng lợi lớn từ hoạt động thương mại này. Sản lượng trong nước của Trung Quốc không đáp ứng được nhu cầu, ngay cả khi nhu cầu đã chậm lại.

Brazil đã chứng kiến ​​lượng xuất khẩu kỷ lục sang Trung Quốc vào đầu năm nay nhờ giá đậu nành rẻ hơn, được sử dụng để làm dầu ăn và thức ăn chăn nuôi. Tuy nhiên, cho đến nay Hoa Kỳ đã bán được ít hơn 5 triệu tấn đậu nành cho Trung Quốc trong mùa vụ 2024-2025 - mức thấp nhất trong 16 năm (không tính đến cuộc chiến thương mại 2018-2019) và giảm 25% so với một năm trước.

“Nhu cầu của Trung Quốc không còn mạnh như trước đây nữa”, Paulo Sousa, Chủ tịch Cargill Inc. tại Brazil cho biết. “Chúng tôi không thấy sự tăng trưởng đáng kể như những năm trước”.

Nông dân không phải là những người duy nhất gặp khó khăn, khi lợi nhuận của các doanh nghiệp dịch vụ ăn uống lớn ở Bắc Kinh đã giảm 88% trong nửa đầu năm do người tiêu dùng trở nên tiết kiệm hơn.

Triển vọng của nền kinh tế Trung Quốc vẫn ảm đạm, với tình trạng giảm phát có dấu hiệu tăng vọt và mục tiêu tăng trưởng hàng năm của quốc gia này trong năm nay có vẻ ngày càng “xa tầm với”. Ngành nông nghiệp Trung Quốc đang bắt đầu tính toán về lượng nhập khẩu trong năm 2024-2025.

Theo một số thương nhân Trung Quốc, lượng ngô xuất khẩu có thể giảm hơn một nửa xuống còn 9 - 11 triệu tấn, trong khi lượng lúa mì nhập khẩu có thể giảm xuống còn khoảng 7 - 9 triệu tấn - giảm so với mức 13 triệu tấn trong năm 2023-2024.

Bắc Kinh "đã tuyên bố đầu mục tiêu năm nay của họ là cải thiện thu nhập cho các nhà sản xuất ngũ cốc Trung Quốc và thúc đẩy hiệu quả trong nông nghiệp, điều này ngụ ý rằng Trung Quốc sẽ giám sát chặt chẽ hơn đối với hàng nhập khẩu trong tương lai", Tanner Ehmke, nhà kinh tế trưởng về ngũ cốc và hạt có dầu tại CoBank cho biết. "Nhưng cũng có thể là mối lo ngại về nền kinh tế đang chậm lại của Trung Quốc".

Trung Quốc là nước mua lúa mì lớn nhất của Úc trong vài năm qua. Giờ là lúc những người nông dân đang tìm kiếm các thị trường khác.

Nông dân Andrew Weidemann thường vận chuyển khoảng 1/5 lượng ngũ cốc của mình đến Trung Quốc. Ông dự kiến ​​khối lượng đó sẽ giảm một nửa. "Bất cứ điều gì xảy ra ở Trung Quốc đều sẽ có tác động rất lớn đến thị trường thế giới", Weidemann, người điều hành một trang trại rộng 4.000 ha ở trung tâm Victoria, phía đông nam Úc, cho biết.

Trong khi nông dân và thương nhân nước ngoài có thể bị giảm lợi nhuận, thì điều tích cực đối với người tiêu dùng toàn cầu là ngũ cốc rẻ hơn có thể làm giảm áp lực lên lạm phát lương thực tăng vọt sau cuộc xung đột ở Ukraine.

D.Q

Bloomberg

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank
  • bao-hiem-pjico
  • rot-von-duong-dai-agri
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,950 78,150
Nguyên liệu 999 - HN 77,850 78,050
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 17/09/2024 06:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 78.000 79.200
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 78.000 79.200
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 78.000 79.200
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 78.000 79.200
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 78.000 79.200
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 78.000
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 78.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.900 78.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.820 78.620
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 77.010 78.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.690 72.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.780 59.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 52.270 53.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.910 51.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.760 48.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.790 46.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.490 32.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.260 29.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.720 26.120
Cập nhật: 17/09/2024 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,695 7,880
Trang sức 99.9 7,685 7,870
NL 99.99 7,700
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,800 7,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,800 7,920
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,800 7,920
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 17/09/2024 06:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,900 79,200
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,900 79,300
Nữ Trang 99.99% 77,800 78,800
Nữ Trang 99% 76,020 78,020
Nữ Trang 68% 51,239 53,739
Nữ Trang 41.7% 30,513 33,013
Cập nhật: 17/09/2024 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,074.53 16,236.90 16,758.71
CAD 17,618.42 17,796.38 18,368.31
CHF 28,321.27 28,607.35 29,526.71
CNY 3,389.86 3,424.10 3,534.67
DKK - 3,587.62 3,725.21
EUR 26,575.60 26,844.04 28,034.30
GBP 31,481.68 31,799.67 32,821.63
HKD 3,070.05 3,101.06 3,200.72
INR - 291.93 303.62
JPY 170.37 172.09 180.32
KRW 16.08 17.87 19.49
KWD - 80,292.02 83,506.53
MYR - 5,650.80 5,774.36
NOK - 2,269.50 2,365.99
RUB - 256.44 283.90
SAR - 6,523.23 6,784.39
SEK - 2,361.68 2,462.09
SGD 18,471.25 18,657.83 19,257.44
THB 653.80 726.45 754.31
USD 24,350.00 24,380.00 24,720.00
Cập nhật: 17/09/2024 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,360.00 24,370.00 24,710.00
EUR 26,674.00 26,781.00 27,896.00
GBP 31,630.00 31,757.00 32,743.00
HKD 3,083.00 3,095.00 3,199.00
CHF 28,412.00 28,526.00 29,420.00
JPY 170.08 170.76 178.66
AUD 16,156.00 16,221.00 16,726.00
SGD 18,563.00 18,638.00 19,191.00
THB 719.00 722.00 754.00
CAD 17,730.00 17,801.00 18,344.00
NZD 14,869.00 15,373.00
KRW 17.68 19.52
Cập nhật: 17/09/2024 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24380 24380 24720
AUD 16342 16392 16902
CAD 17881 17931 18382
CHF 28814 28864 29417
CNY 0 3425.5 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27067 27117 27819
GBP 32161 32211 32863
HKD 0 3185 0
JPY 173.16 173.66 179.22
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 14996 0
PHP 0 414 0
SEK 0 2395 0
SGD 18752 18802 19362
THB 0 698.8 0
TWD 0 772 0
XAU 7900000 7900000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 17/09/2024 06:00