Triển vọng sáng của kinh tế vĩ mô 5 tháng cuối năm

Cơ hội cho thị trường chứng khoán Việt Nam

06:45 | 14/07/2018

660 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trung tâm Phân tích Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí (PSI) nhận định, Việt Nam sẽ đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ đề ra; các tổ chức tín dụng quốc tế như HSBC, WB, ADB vẫn đánh giá cao tiềm năng phát triển của Việt Nam; giai đoạn khối ngoại bán ròng sẽ sớm chấm dứt, thị trường chứng khoán nhiều khả năng sẽ hồi phục mốc 1.200 điểm từ nay đến cuối năm 2018.

Nhiều điểm sáng của kinh tế vĩ mô

Quý II/2018 vừa đi qua với nhiều biến cố và sự kiện kinh tế, chính trị quan trọng trên thế giới. Bất ổn địa chính trị leo thang, tăng trưởng kinh tế giảm tốc tại một số khu vực ở Mỹ, châu Âu, trong khi một số nước châu Á như Trung Quốc, Malaysia thì nguy cơ suy thoái đang có dấu hiệu quay lại khi cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã trở thành mối nguy cơ tiềm tàng.

co hoi cho thi truong chung khoan viet nam
Thị trường chứng khoán nhiều khả năng sẽ hồi phục trở lại mốc 1.200 điểm từ nay đến cuối năm

Trong bối cảnh kinh tế thế giới có những biến động lớn, khó lường thì những số liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam qua 6 tháng đầu năm lại khá tích cực. Tăng trưởng GDP bất ngờ tăng mạnh nhất kể từ 8 năm trở lại đây, đạt mốc 7,08%, vượt xa mục tiêu đề ra của Chính phủ từ đầu năm (6,7%). Các dự án đầu tư trực tiếp hay gián tiếp vẫn tiếp tục gia tăng tại các thành phố trọng điểm Hải Phòng, TP HCM, Hà Nội… Nhật Bản, Hàn Quốc là 2 quốc gia có mức đầu tư lớn nhất vào nước ta hiện nay với tổng giá trị các dự án được phê duyệt lần lượt là 5,5 tỉ USD và 3,1 tỉ USD.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm trong đó một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam cũng có mức tăng trưởng tốt như sắt thép tăng 43,7%, dệt may tăng 22,1% hay khí hóa lỏng (LPG) tăng 18,5%.

Tuy nhiên, bên cạnh bức tranh sáng màu về nền kinh tế thì những mặt tiêu cực cũng đã bộc lộ. Các ngân hàng trưng ương thế giới đưa ra các động thái thắt chặt tiền tệ trong năm 2018 do tình hình kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh tại các khu vực ở Mỹ, châu Âu và châu Á, các chương trình kích thích kinh tế không phải là mục tiêu ưu tiên. Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất 0,25%, lần thứ 2/4 trong năm theo lộ trình đã được công bố trước cũng đã phản ánh việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của các nước phát triển và đang phát triển là tất yếu. Tại Việt Nam, với xu thế mạnh lên của đồng USD, tỷ giá tăng, lãi suất có dấu hiệu tăng trở lại ở một số kỳ hạn ngắn 6-24 tháng, lạm phát sẽ khó duy trì dưới mức 4% cả năm 2018.

Trong ngắn hạn, thị trường chưa có những dấu hiệu hồi phục chắc chắn vì cuộc đối đầu thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu sẽ kết thúc; nhiều khả năng sắp tới FED sẽ tiếp tục tăng lãi suất, từ đó kích hoạt dòng vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, việc dòng tiền của nhà đầu tư nước ngoài trở lại mua ròng trên thị trường chứng khoán nước ta trong ngắn hạn sẽ khó xảy ra.

Trái ngược với diễn biến tích cực của nền kinh tế thì thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 3 tháng giao dịch tiêu cực nhất trong vòng 2 năm trở lại đây. Việc sụt giảm về điểm số từ mốc 1.200 điểm về dưới mốc 900 điểm đầu tháng 7-2018 đã chỉ ra những hạn chế nội tại xuất phát từ nền kinh tế cũng như ảnh hưởng tiêu cực từ những biến động địa chính trị, chính sách bảo hộ của chính quyền Tổng thống Donald Trump hay việc chuyển dịch dòng vốn ngoại, rút ra khỏi các thị trường mới nổi trong đó có Việt Nam.

Phục hồi mốc 1.200 điểm

Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc đã leo thang và đang trở thành “bóng ma” đe dọa sự phát triển kinh tế toàn cầu. Việc áp dụng mức thuế mới đánh vào các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ có xuất xứ từ Trung Quốc khiến một số nguyên liệu thô như sắt thép, nhôm sẽ có khung giá mới. Áp lực tăng giá các nguyên vật liệu thô sẽ tác động làm tăng giá các sản phẩm trên thị trường. Bên cạnh đó, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp lớn thuộc ngành công nghệ, tài nguyên cơ bản sẽ gặp khó khăn (Apple, Yahoo…). Tăng trưởng kinh tế thế giới bị đe dọa nghiêm trọng và Việt Nam sẽ không là trường hợp ngoại lệ thoát khỏi vòng ảnh hưởng.

Mặt khác, diễn biến bán ròng của khối ngoại trong quý II/2018 cũng là điều mà các nhà đầu tư Việt Nam và nước ngoài rất quan tâm. Cho dù chưa thể chỉ rõ ra động thái bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài đến chủ yếu từ việc FED tăng lãi suất, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng ảnh hưởng đến dòng tiền đầu tư toàn cầu hay do môi trường kinh doanh, đầu tư của Việt Nam bất ổn do lạm phát, lãi suất gia tăng hoặc chỉ là hoạt động cơ cấu danh mục của các quỹ đầu tư… Dù xuất phát từ lý do nào thì điều đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến thị trường chứng khoán rơi vào xu hướng điều chỉnh dài hơn dự kiến. Dòng tiền tham gia vào các cổ phiếu lớn thuộc nhóm VN30 đã giảm sút, thanh khoản suy yếu cũng là điều khiến chỉ số VN-Index chưa thể hồi phục. Quá trình điều chỉnh có thể tiếp diễn trong tháng 7, thậm chí cả tháng 8 năm nay.

co hoi cho thi truong chung khoan viet nam
Nguồn: Bloomberg, GSO, PSI tổng hợp

Tuy nhiên, Việt Nam sẽ vẫn đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ đề ra. Các tổ chức tín dụng quốc tế như HSBC, WB, ADB vẫn đánh giá cao tiềm năng phát triển của Việt Nam. Phát triển ngành công nghiệp, chế biến, chế tạo vẫn là động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc khối ngoại bán ròng giai đoạn vừa qua nhiều khả năng sẽ sớm chấm dứt khi giai đoạn cơ cấu danh mục cũng như quá trình cân bằng danh mục các quỹ hoán đổi danh mục (ETFs) hoàn thành. Thị trường chứng khoán nhiều khả năng sẽ tạo đáy quanh vùng 860-890 điểm trước khi hồi phục mốc 1.200 điểm từ nay đến cuối năm 2018.

Minh Châu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 118,000
AVPL/SJC HCM 116,000 118,000
AVPL/SJC ĐN 116,000 118,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 02:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 114.400
TPHCM - SJC 116.000 118.000
Hà Nội - PNJ 112.000 114.400
Hà Nội - SJC 116.000 118.000
Đà Nẵng - PNJ 112.000 114.400
Đà Nẵng - SJC 116.000 118.000
Miền Tây - PNJ 112.000 114.400
Miền Tây - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 113.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 113.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 112.990
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 112.760
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 85.500
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 66.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 47.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 104.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 69.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 74.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 77.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 42.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 37.700
Cập nhật: 07/06/2025 02:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 11,440
Trang sức 99.9 11,000 11,430
NL 99.99 10,760
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 11,500
Miếng SJC Thái Bình 11,600 11,800
Miếng SJC Nghệ An 11,600 11,800
Miếng SJC Hà Nội 11,600 11,800
Cập nhật: 07/06/2025 02:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16377 16645 17221
CAD 18508 18785 19404
CHF 31053 31431 32086
CNY 0 3530 3670
EUR 29113 29382 30413
GBP 34442 34833 35784
HKD 0 3188 3391
JPY 173 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15386 15979
SGD 19708 19990 20520
THB 714 777 831
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26230
Cập nhật: 07/06/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 02:45