Chuyện khó tin nhưng có thật (số 60): Chúng tôi tìm lại nhau sau 40 năm lưu lạc
Trong sự gặp gỡ của tôi với bóng hồng ấy, tôi nghĩ hoàn toàn do số phận và định mệnh sắp đặt. Khi cấp cứu cô gái và đưa cô về nhà nghỉ dưỡng, qua trò chuyện với bố mẹ cô, tôi mới được biết cô tên là Tấm, đang là học sinh năm thứ 3 Trường nữ sinh Đồng Khánh Huế.
Vì mê tích truyện Tấm Cám mà cha mẹ cô đặt tên con gái yêu là Tấm những mong con xinh đẹp, dịu hiền và cuộc đời có gian truân thế nào vẫn may mắn. Khi đi học, Tấm đổi tên là Uất Kim Hương, loài hoa chịu được nắng mưa, sống ở những vùng đất khô cằn sỏi đá vẫn rực rỡ. Cha mẹ Tấm được bà con lối xóm yêu mến gọi là ông bà Giáo Thụ vì tấm lòng nhân ái, hay giúp đỡ bà con.
Sau cuộc gặp gỡ duyên phận ấy, tôi và Tấm thân nhau. Hai đứa thường chờ nhau đi học và tan trường cùng về. Tấm rất đẹp, nét đẹp nền nã, kín đáo, dịu dàng, mông lung khó nắm bắt được của một nữ sinh Huế vào tuổi dậy thì. Người cô mảnh mai, đôi môi hồng luôn vương vất nụ cười, đôi mắt trời cho ướt mi sâu lắng xanh thẳm đáy đại dương, hai má lúm đồng tiền, hàm răng khểnh có duyên, mái tóc đen dài óng ả thả ngang lưng, xõa kín bờ vai mảnh dẻ dáng đi thướt tha yêu kiều. Trong chiếc áo dài trắng, trông cô thuần khiết như giọt sương mai. Tấm như người con gái trong mộng tưởng của tôi. Tình cảm đã thầm kín e ấp mà vô cùng mãnh liệt. Song thời gian trôi qua, chúng tôi chưa ai dám nói với ai lời yêu. Sau nhiều lần trăn trở, đến lúc không thể kìm nén hơn, tôi đã đánh liều tỏ tình với người con gái tôi yêu bằng một bài thơ viết đi viết lại không dưới hàng chục lần:
"Em là ai?/ Sao em có đôi mắt/ Như dòng suối trong vắt/ Những chiều anh tắm mát/ Em là ai?/ Sao môi em đỏ thắm/ Như vườn xưa nắng ấm/ Anh sống ngày ấu thơ/ Em là ai?/ Sao mi em đẫm sương/ Như đường nét quê hương/ Anh từng tô màu sắc/ Em là ai?/ Sao tóc em nhẹ bay/ Như hàng tre lắt lay/ Theo chiều gió trước ngõ/ Em là ai?/ Sao dáng em mảnh mai/ Như bóng người con gái/ Anh trộm nhớ đêm dài". Thư gửi đi nhưng không có hồi âm. Lòng tôi như lửa đốt.
Những ngày sau đó, không thấy Tấm đi học. Tôi như người lên cơn sốt, mộng mị, đêm mơ gặp Tấm, đuổi theo gọi mà cô như nàng tiên lúc ẩn lúc hiện. Trong lúc buồn lo đó, tôi gặp Hồng, bạn của Tấm, Hồng nói cho tôi biết Tấm bị ốm mấy ngày hôm nay rồi. Mấy hôm sau gặp lại, Tấm tủm tỉm cười trao cho tôi cuốn "Chuyện tình Lan và Điệp". Tôi mừng rỡ, không còn biết hy vọng hay thất vọng. Trong ánh nắng giữa trưa hè mỏng manh như thuỷ tinh, tôi như đang đứng khát giữa sa mạc Sahara đó đây nổi lên từng cơn bão cát.
Sau một thời gian sống trong phấp phỏng chờ đợi, cuối cùng, tôi cũng được mẹ Tấm đồng ý cho gặp mặt. Cha mẹ Tấm chỉ nói, thanh niên phải có chí lớn, nam nữ thụ thụ bất thân. Cha Tấm xuất thân trong gia đình Nho giáo, là người học vấn uyên thâm, ông giảng giải và trò chuyện với tôi về học vấn hàng giờ liền, tôi như một tín đồ đắm chìm trong những tri thức uyên bác và lời giảng minh triết của ông. Cha mẹ Tấm chỉ có mình Tấm, lại là con gái nhưng ông nhất quyết không lấy vợ hai dù bị áp lực của dòng họ. Ông bà đem học vấn cho Tấm, một đặc quyền thường dành cho nam giới bấy giờ. Ông bà dạy cô theo khuôn phép công dung ngôn hạnh. Chúng tôi được phép làm bạn với nhau.
Những phút sau giờ học, chúng tôi được đi chơi với nhau khắp thành Huế. Tình cảm của hai đứa trong veo như một giọt sương buổi sáng mai. Chúng tôi nắm tay nhau đi chơi bên bờ sông Hương, trèo lên đồi thông Thiên An, qua chùa Thiên Mụ. Tấm mơ màng nghe tôi thổi sáo bài Tiếng địch sông Ô. Những đêm trăng sáng, chúng tôi bên nhau chìm trong cái tĩnh lặng sâu đến độ không miêu tả và lý giải được... Tôi đã viết những dòng thơ tình tặng Tấm: "Huế trầm mặc, trăng thượng huyền mờ ảo/ Dòng sông Hương lao xao ánh bạc lững lờ trôi/ Đẹp diệu kỳ, tôi yêu trăng chả nói nên lời/ Thánh thiện, liêu trai, mối tình tí bụi đời chẳng dính/ Yêu trăng, nhiều đêm dài tôi ngồi hoá đá/ Giữa muôn trùng ánh sao, giữa vạn ngàn ảo ảnh..."
(Ảnh minh họa)
Khi Tấm đến tuổi cập kê, có một sự kiện xảy ra. Xưa, cha mẹ Tấm có lời hẹn ước gả con cho nhau nếu sinh con khác giới với người bạn vong niên là ông phán Tài. Lời hẹn cách đây 20 năm trong một cuộc rượu. Chẳng ngờ 20 năm sau, ông phán Tài từ Thụy Sỹ về nhắc lại lời hẹn cũ vì ông có người con trai tên là H đang học đại học Y khoa sắp tốt nghiệp về nước. Chuyện hôn nhân không phải không gây nên bao suy nghĩ trong lòng cha mẹ Tấm vốn là những người trọng lời hứa và giữ chữ tín. Tương lai của H đã rõ ràng, còn tôi lúc này vẫn đang mông lung. Thế nhưng cha mẹ của Tấm đã để Tấm quyết định việc hôn nhân hệ trọng, mong con gái hạnh phúc với lựa chọn của riêng mình.
Trong lúc đấy, việc hứa hôn của cha tôi và một người bạn trong triều đình Huế ở bên gia đình tôi lại căng thẳng hơn. Cha và mẹ cả tôi coi như đã định đoạt việc hôn nhân của tôi, chẳng cần biết tôi có đồng ý hay không. Khỏi phải nói cả tôi và Tấm trải qua những ngày căng thẳng, đấu tranh quyết liệt để giữ được chính kiến của mình. Cuối cùng thì tôi và Tấm đã thuyết phục được các bậc phụ huynh để đến với nhau. Sau khi bàn bạc hai gia đình đi đến quyết định tháng 6/1946 sẽ làm lễ hỏi và 2 tháng sau làm lễ cưới cho tôi và Tấm. Chúng tôi hồi hộp chờ đón giây phút hạnh phúc ngỡ đã cầm nắm được trong lòng bàn tay. Nhưng than ôi, người định không bằng trời định. Tháng 4/1946 mẹ Tấm bị ốm rồi mất đột ngột. Không lâu sau đó, mẹ cả tôi cũng mất. Là gia đình Nho giáo, chúng tôi hiểu chữ Hiếu là Thiên chi kinh, Địa chi nghĩa, Nhân chi hạnh. Tức là Hiếu là sách của Trời, Nghĩa của đất, Hạnh của người nên không thể cưới chạy tang mà phải chờ mãn tang.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công như một cơn cuồng phong ồ ạt lôi kéo thanh niên chúng tôi vào cuộc đời mới, đánh thức khát vọng được chứng tỏ mình. Tôi tham gia vào Đội Thanh niên tiền tuyến. Cha tôi và cha Tấm đều rất ủng hộ. Tháng 9/1946 tôi được lệnh ra Hà Nội học lớp sĩ quan tham mưu. Lần đầu tiên kể từ khi yêu nhau, chúng tôi nếm mùi biệt ly. Sau khi mẹ mất, Tấm nghỉ học chăm cha vì cha cô cũng đã già yếu. Ngày tiễn biệt, Tấm xếp hành lý cho tôi lặng lẽ đặt vào va ly những kỷ vật hẹn ước tình yêu Tấm dành cho tôi. Không kìm nén được tình cảm, lần đầu tiên chúng tôi phá rào ôm chặt lấy nhau, Tấm cắn vào vai tôi tứa máu. Đó là vết sẹo tình yêu Tấm gửi cho tôi và tôi mang theo trong suốt cả cuộc đời mình. Tiễn tôi đi, Tấm để mặc những giọt nước mắt lăn dài trên má. Một con nhạn trắng lạc bầy xẹt qua vườn nhà, điềm báo ứng cho nối hoài thương ly biệt.
Từ tháng 9 cho đến đầu tháng 12/1946, tôi và Tấm thường xuyên viết thư cho nhau, nặng lòng hẹn ước ngày về. Đến ngày 19/12/1946, chiến tranh toàn quốc nổ ra, tôi và Tấm mất liên lạc với nhau. Tôi rút khỏi Thủ đô Hà Nội theo chân những người lính Vệ quốc. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, phần lớn thời gian tôi ở Lào trong đoàn quân tình nguyện. Ở đây, tôi đã có một trận suýt chết trong lần đi nghiên cứu trận địa bị địch phục kích. Cậu cận vệ đã bắn đến viên đạn cuối cùng và lấy thân mình che chở cho tôi. Cậu ấy hy sinh, còn tôi bị thương.
Địch lôi tôi đi cho đến lúc tôi hôn mê sâu, chúng tưởng tôi đã chết nên quẳng xác lại. Khi tỉnh dậy tôi thấy đang nằm trong nhà một mế Lào và có một cô thiếu nữ đang giúp rửa vết thương cho tôi. Tôi chết đi sống lại giữa những cơn mộng mị về cậu lính cận vệ thân thể máu me che đạn cho tôi. Vì không thể cùng đơn vị hành quân, tôi được gửi lại nhà mế Lào chăm sóc, hẹn xong chiến dịch sẽ về đón. Cô thiếu nữ XX đã chăm sóc tôi chu đáo. Khi vết thương đã lên da non, tôi tập tễnh đi lại được, XX thường dìu tôi ra vườn thuốc của nhà và ra bờ suối hái thuốc.
XX vô tư vui cười nhí nhảnh bao nhiêu, lòng tôi buồn nhớ Tấm bấy nhiêu. Nỗi nhớ cồn cào day dứt. Một hôm, trong ánh trăng khuya gác mái và mùi hoa dại luồn vào khe cửa, tôi thấy XX hiện ra với nụ cười thơ ngây quen thuộc và đôi mắt long lanh. XX ngỏ lời yêu tôi. Tôi nắm tay XX bảo với cô tôi đã có người yêu chờ đợi nơi quê nhà và chỉ xem XX là em gái. Tôi đã nợ em về nghĩa không thể nợ em về tình. XX thất vọng trở về giường mình. Thế nhưng, một đêm mưa gió bão bùng, sấm sét giật liên hồi. XX đã lại tìm đến tôi, lao vào tôi trong vòng ôm cuồng nhiệt. Tôi bị cơn lũ nóng bóng tình ái của XX cuốn đi. Địch không thắng nổi tôi nhưng tôi đã thua XX tan tác.
Tôi, thằng đàn ông chưa từng nếm mùi đời đã bị đổ gục trước sự dâng hiến cuồng nhiệt của XX. Sau giây phút đam mê kiệt cùng, tôi đã rất ân hận và tự trách mình yếu đuối. Nửa tháng sau, đơn vị về đón tôi đi, XX đã buộc chỉ tay chúc phúc cho tôi mà đôi mắt mờ lệ. Tôi tặng lại XX chiếc vòng bạc trắng làm kỷ niệm.
Sau hiệp định Genève tôi được gọi về nước. Tôi được lãnh đạo Phathet Lào đánh giá cao những đóng góp tận tụy, được trao tặng Huân chương Quân công của bạn. Nhưng tôi cũng bị cấp trên khiển trách vì tội hủ hóa với XX. Thật ra, do day dứt với Tấm, và tình yêu sâu nặng mà tôi dành cho Tấm, cộng với sự trung thực của một người lính, một người đàn ông chân chính tôi đã tự trừng phạt mình bằng cách tự thú trước chi bộ chuyện xảy ra với cô XX. Nếu tôi không tự thú, chắc chắn chuyện tôi với XX chẳng ai biết.
Tôi trở về Hà Nội sau dịp tiếp quản Thủ đô. Cứ tưởng đời mình rồi sẽ gắn bó mãi mãi trong quân đội nhưng bất ngờ tôi được lệnh chuyển sang công tác ở ngành kinh tế đối ngoại. Rất hụt hẫng về quyết định này nhưng cấp trên giải thích tôi có trình độ ngoại ngữ Pháp, Anh, Lào, lại đã qua thử lửa trong chiến tranh nên Bộ rất cần. Thật ra, nhận công tác mới tôi rất băn khoăn, không biết Bộ cần một người cán bộ như tôi không, hay cuộc thử lửa hơn chục năm qua trong chiến trường chưa đủ độ để tôi được ở lại trong quân đội. Vốn là người kiêu hãnh, tự tin, tôi bình thản bước vào nhiệm vụ mới.
Công việc mới cuốn tôi đi trong vòng xoáy vô tận. Là một người lính dạn dày trận mạc nay bước vào cái ngành gọi là vua kinh tế được nhiều người thèm muốn, tôi phải bắt đầu lại từ đầu. Tôi bắt đầu từ việc học kiến thức, học thêm tiếng Nga, đánh vật với biển tri thức khổng lồ về kinh tế và quản lý. Hầu như toàn bộ thời gian tôi dành cho việc học và nghiên cứu tình hình kinh tế đối ngoại, đi công tác nước ngoài liên miên, nhưng trong lòng vẫn canh cánh một nỗi niềm biết tìm Tấm ở đâu. Tôi dứt khoát không lập gia đình cho dù đã bước sang tuổi 30. Chiến tranh chưa kết thúc, Bắc Nam chưa thống nhất, tôi không thể đi tìm Tấm được, đành phải chờ đợi và cầu mong một phép nhiệm mầu để tôi sớm vào Huế tìm Tấm cho thoả nỗi mong nhớ, tình yêu và lời hẹn ước.
Âm nhạc ru tôi trong thế giới âm thanh, đắm chìm trong suy tư trầm bổng, vỗ về nỗi cô đơn giấu kín trong lòng tôi. Hình ảnh của Tấm - đoá Uất Kim Hương xứ Huế vẫn ám ảnh sâu trong tâm trí của tôi. Tôi khao khát một ngày nào đó, hết chiến tranh, Bắc Nam thống nhất để tôi có thể thỏa ước vọng đi tìm gặp lại Tấm, để cho tình yêu của chúng tôi kết trái nên duyên vợ chồng cho thỏa nỗi nhớ mong xa cách.
Tôi được phân căn hộ 16m2 của khu chung cư. Ngoài giờ làm việc ra, tôi vùi đầu vào đọc sách, tự học và nghe nhạc. Càng ngày tôi càng thích đi sâu vào đọc Kinh Thi, Kinh Dịch để tìm trong sâu thẳm định mệnh con người và tình người. Âm nhạc ru tôi trong thế giới âm thanh, đắm chìm trong suy tư trầm bổng, vỗ về nỗi cô đơn giấu kín trong lòng tôi. Hình ảnh của Tấm - đoá Uất Kim Hương xứ Huế vẫn ám ảnh sâu trong tâm trí của tôi. Tôi khao khát một ngày nào đó, hết chiến tranh, Bắc Nam thống nhất để tôi có thể thỏa ước vọng đi tìm gặp lại Tấm, để cho tình yêu của chúng tôi kết trái nên duyên vợ chồng cho thỏa nỗi nhớ mong xa cách.
Thế nhưng, oái oăm thay, sự đời đâu như mong ước. Trong nỗi cô đơn tận cùng của sự xa cách, tôi đã không đủ sức để bơi qua cái biển thời gian vô hạn mênh mông kia để chờ đến ngày chiến tranh chấm dứt mà đi tìm gặp Tấm.
Trong khu chung cư nơi tôi ở có cô gái tên L. Cô L tốt nghiệp Khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp, làm việc tại một nhà xuất bản văn học. Thấy tôi ở một mình, lại thích nghe nhạc, đọc sách, cô L thường chủ động ghé lại chơi chuyện phiếm với tôi. Chúng tôi nói chuyện, tranh luận văn chương, cùng đi xem phim, ca nhạc, và triển lãm tranh ảnh. Gần gũi, tôi thấy L về mặt hình thức giống Tấm của tôi, nhất là đôi mắt đen một mí dài như mắt phượng, cùng cái răng khểnh cười rất có duyên. Về tính cách, L có vẻ nghệ sĩ, lãng mạn, có nét gì đó thích khám phá, dấn thân, và mạnh mẽ, có sức thu hút. Những lúc rỗi, L thường trốn vào một góc tĩnh lặng nào đó để vẽ và viết. Đề tài sáng tác của L là thân phận người phụ nữ với nhiều nội tâm giằng xé phức tạp.
Những nhân vật phụ nữ trong tác phẩm viết và vẽ của L bao giờ cũng đấu tranh, đi tìm bản ngã và tự giải phóng mình. Trong tranh của L, hình ảnh người phụ nữ luôn trong trạng thái mơ hồ, vừa ảo, vừa thực, miên man bên bờ hoan lạc cũng như khắc khoải trong nỗi ưu phiền, chìm đắm trong một thế giới vừa vô vi, vừa trần tục.
Thật ra, đây là giai đoạn tôi giằng xé tình cảm một cách ghê gớm. Tôi yêu Tấm, trái tim hướng trọn cho Tấm nhưng trong tôi không phải không xáo trộn bởi nhiều ý nghĩ. Có thể Tấm vẫn kiên trinh một lòng đợi tôi. Nếu lấy L, ngày về gặp Tấm, tôi sẽ rất đau khổ xót xa vì hối hận. Như vậy liệu tôi có hạnh phúc. Khả năng thứ hai là Tấm vì hoàn cảnh mất liên lạc với tôi mà đã đi lấy chồng, thì tôi có thể an lòng hơn. Nhưng chỉ nghĩ đến những khả năng ấy thôi tôi đã thấy lòng mình quặn đau, không muốn nghĩ tiếp. Với L, tôi hiểu tình cảm L dành cho tôi, nhưng nếu lấy L mà không có được một tình yêu sâu đậm như với Tấm, để rồi nên vợ chồng rồi nhưng đêm ngày Tấm vẫn tồn tại trong mộng tưởng, thì L đâu có tội tình gì mà phải chịu bất hạnh ấy.
Thời gian cứ thế dùng dằng trôi đi, L không biết có hiểu được nỗi giằng xé trong tôi không nhưng cô siêng đi lại săn sóc tôi những lúc vết thương trở trời tái phát, khiến cho tôi vô cùng xúc động. Thế rồi điều gì đến, đã đến. Một đêm trăng, tôi và L đi chơi ở ven sông Hồng. Ánh trăng lai láng trên dòng sông đỏ nặng phù sa, tiếng dế đạp cỏ lách tách rỉ rả, khắc khoải tìm nhau trong mùa yêu đương làm cho chúng tôi dễ mở lòng với nhau hơn. Chúng tôi tâm sự hết với nhau những điều sâu kín. L cũng nói với tôi cô ấy đã trải qua một lửa, nhưng không nói vì sao đứt gánh giữa đường. L yêu tôi vì bản tính lương thiện và trí tuệ sắc sảo của tôi. Cô ấy thương tôi hơn chục năm nay cô đơn trong mối tình xa cách. Cô muốn chúng tôi nên vợ nên chồng, tình yêu sẽ được nảy nở và lấp dần những khoảng cách. L còn nói, nếu sau này giải phóng, chị ấy vẫn còn đợi anh thì em sẵn sàng trả lại anh cho chị. Anh và chị xứng đáng được hưởng hạnh phúc với mối tình đẹp hiếm có. Tôi tin L nói thực lòng. Sống trong chiến tranh, người ta rất dễ vị tha.
Mấy tháng sau, chúng tôi quyết định cưới nhau. Đêm tân hôn, L chuẩn bị tất cả cho một khung cảnh hoàn hảo. Trong ánh nến, hoa hồng, và tiếng nhạc du dương, chúng tôi dâng hiến cho nhau trong xúc cảm tột cùng. L đã cho tôi hiểu thế nào là khoái lạc chăn gối vợ chồng. Chúng tôi hưởng tuần trăng mật những cơn sóng trào từng đợt, ào tới từng đợt. Bao nhiêu năng lượng dồn nén hầu như bị đốt sạch. Sau 4 năm chung sống, chúng tôi sinh được 2 con. Con trai giống tôi như đúc, càng lớn càng học giỏi các môn tự nhiên, nhất là toán và lý. Con gái giống mẹ phần nhiều, lãng mạn, yêu văn chương nghệ thuật, có năng khiếu ngoại ngữ. Cả nhà tôi sống với nhau rất hạnh phúc. Tôi và L thỉnh thoảng vẫn chở nhau qua quán cà phê thưởng thức cà phê và xem tranh Phố, nghĩ về những bước thăng trầm của Hà Nội.
Chiến tranh kết thúc, cuộc hôn nhân của tôi và L cũng đương độ viên mãn. Chúng tôi đã đánh thức được tình yêu trong tổ ấm bé nhỏ. Trớ trêu thay, tôi phải đối mặt với quá khứ là phải đi về Huế thăm quê cha đất tổ và tìm Tấm. Thời gian này, cả tôi và L đều lặng lẽ hơn, trầm tư hơn. Chính L đã chủ động giục tôi đi tìm Tấm để xem Tấm bây giờ sống ra sao. Phải tìm được Tấm rồi mọi chuyện mới tính tiếp được. Tôi thu xếp lên đường vào Huế. Tôi đề nghị L bay cùng tôi vào Huế nhưng cô xin khất lại chuyến sau. Cô muốn chuyến trở về quê đầu tiên của tôi được thanh thản.
Tôi ngồi trên máy bay từ Hà Nội vào Huế mà suy nghĩ miên man. Thời gian như ngưng tụ khi nghĩ về Tấm. Lòng nhức nhối tôi đành thả mình rơi tự do theo số phận. Đến sân bay Phú Bài, tôi cho xe chạy thẳng đến nhà Tấm trong nỗi thấp thỏm lành ít dữ nhiều. Đến nơi, tôi đứng lặng câm trong thất vọng vì không còn lấy một dấu vết của căn nhà thân thương mà tôi gửi gắm tình đầu. Cha mẹ cô đã mất, còn Tấm thì biệt tăm ao cá, bạn bè tha hương giờ không còn một ai. Tuyệt vọng, tôi quay lại nhà tôi.
Cảnh cũ người xưa không còn, tôi như con chim lạc mẹ không tìm ra tổ ấm. Tôi lặng lẽ nhìn ngôi nhà xưa trải qua bao thế sự thăng trầm đã đổi thay. Đứng trước bàn thờ khấn vái tổ tiên xin tạ lỗi sau bao năm xa cách, tôi đã bật khóc. Tôi dành thời gian đi thăm mộ cha mẹ đôi bên và rời Huế với những mảnh vỡ trong những tro bụi ký ức. Nỗi cô đơn không che lấp được. Cuộc đời muôn đường vạn nẻo, tôi biết tìm Tấm ở đâu để rút ruột nói với cô một lời yêu thương tạ lỗi trong biển người mênh mông này.
Hạnh phúc đẹp mong manh và dễ vỡ. Tôi ngày càng say mê công việc cơ quan. Tính hiếu thắng, cộng với niềm say mê nghiên cứu, sáng tạo đã cuốn tôi vào công việc đến nỗi nhiều lúc quên cả chuyện vợ con. L thì muốn tôi dành thời gian nhiều cho gia đình, nhất là chuyện riêng tư vợ chồng. Tôi đã cố gắng sửa chữa, cứ nghĩ rằng, cùng với thời gian, tuổi tác thì nhu cầu chăn gối vợ chồng cũng giảm dần đi. Thế nhưng với L thì ngược lại. Cô ấy vẫn nồng nàn, say đắm và đầy khao khát như thuở ban đầu. L hay tâm sự xa gần, kể cho tôi nghe những câu chuyện ngụ ngôn tình tứ và tế nhị, trêu tôi là chàng ngốc để khích lệ tôi. Tôi tự kiểm tra lại chuyện đó, đến bác sỹ tư vấn thì được biết có phần do vết thương hồi ở Lào, cùng với nhiều lần bị sốt rét ác tính, sức khoẻ giảm sút, có phần do tâm lý thiếu tự tin. Không đáp ứng được cho vợ, bản thân tôi thấy day dứt, thương L nhiều.
Đầu năm 1980, tôi được Bộ cử đi phụ trách cơ quan đại diện kinh tế ở Stockholm trong thời gian 4 năm. Khoảng thời gian xa cách này đã làm nên bi kịch cho cuộc hôn nhân của tôi và L. Thời gian vắng chồng, L đang độ tuổi hồi xuân, sức sống tràn trề. Tôi hiểu vợ mình nên tháng nào cũng chăm chỉ viết thư động viên.
Thời kỳ đầu, để giết chết thời gian và nỗi cô đơn, L tập trung cho việc nuôi con và viết, vẽ tranh, thăm thú bạn bè. Nhưng xa chồng lâu ngày quá, nỗi cô đơn và thời gian rỗi đã dẫn dắt L vào những khoảng trống một mình bên tách cà phê của một quán cà phê quen thuộc. Ở đó, có một người đàn ông đã đọc thấy nỗi cô đơn khao khát trên gương mặt người thiếu phụ trẻ đẹp. Người đó đã bước vào cuộc đời của L, cuốn cô ấy đi trong cơn bão lốc tình yêu muộn màng mà rực lửa. Tình yêu đó bùng phát trong dư luận. Bộ phải cho tôi nghỉ phép về nước giải quyết chuyện gia đình. Cả tôi và L đều rất tôn trọng nhau, vì thế tôi và L đều im lặng một thời gian để suy nghĩ trước khi nói chuyện.
Tôi hiểu, L đã thoát ra khỏi vòng tay tôi một phần lỗi là do tôi. Chúng tôi đã im lặng rất lâu trong nỗi giày vò của riêng mình. Cho đến lúc không thể chịu đựng hơn nữa, tôi và L đã đối diện với mọi chuyện. Trong buổi nói chuyện đó, chúng tôi không nói được gì nhiều, không ai lên án ai. L khóc và xin lỗi tôi, cho phép cô ấy được ly hôn.
Tuy rất giận nhưng vẫn còn thương L và điều lớn nhất là không muốn hai đứa con tôi phải đau khổ vì bố mẹ tan vỡ, tôi đã làm tất cả để hàn gắn gia đình. Trước tình hình bất ổn, con gái của tôi bỏ chương trình đại học lẳng lặng lên Nhà máy Giấy Bãi Bằng làm phiên dịch và lấy một kỹ sư Thụy Điển đưa nhau về Stockholm ở, nơi tôi có những đêm trắng vật vã đau khổ vì biết tin vợ ngoại tình. Mấy năm đầu, cháu giận cha mẹ nên không gửi thư từ gì về nhà. Sau khi bình tâm lại, cháu đã gửi thư về chia sẻ nỗi bất hạnh và cô đơn của cha mẹ. Còn cậu con trai út đang học trường chuyên vật lý ở Hà Nội chán gia đình bỏ đi với đám bụi đời tìm bạn cùng cảnh ngộ éo le. Tôi mất rất nhiều thời gian để đi tìm con và kéo cháu trở về nhà.
Than ôi, ông trời thật nghiệt ngã khi thêm một lần nữa thử thách lòng chịu đựng của tôi. Tôi tìm được cháu để kéo cháu về nhà nhưng số phận đã tàn nhẫn khi tước đoạt con tôi khỏi cuộc sống của tôi. Đó là một buổi chiều định mệnh, con trai tôi đang đi học về trên một đoạn đê sông Hồng vắng vẻ, bỗng nghe tiếng kêu cứu của hai cháu nhỏ chới với giữa dòng nước xoáy, nó nhảy xuống cứu được cháu thứ nhất, đến cháu thứ 2 thì bị đuối sức và chìm theo dòng nước xoáy, đến ngày hôm sau mới vớt được xác. Con trai tôi mất đi khi tuổi đời còn quá trẻ, cháu mang theo ước mơ hoài bão trở thành một nhà thiên văn học tài ba. Từ đó đêm nào tôi cũng mơ thấy con trai tôi, đứa con đẹp đẽ như một hoàng tử nằm giữa vùng thảo nguyên mênh mông đang say sưa nghiên cứu thiên văn học. Khi thì nhìn thấy cháu chới với giữa dòng nước lạnh chảy xiết và tôi đi thuyền đưa tay vớt cháu lên mà không sao chạm được tay con trai mình. Những cơn mơ làm cho tôi trắng đêm cùng nước mắt và mồ hôi buốt lạnh.
Trong thời gian này, L cũng suy sụp không kém. Cô ấy thường trốn mình trước giá vẽ, gương mặt u uẩn, và trên tấm toan là những gam màu đen tối, tuyệt vọng. Tôi đã một lần nữa cố gắng hết sức để hàn gắn gia đình trong bi kịch đau đớn vì mất con. Tôi cố gắng bao nhiêu thì L lại vô hồn, vô cảm bấy nhiêu. Với cô ấy, mọi thứ đã hết, đã chết. L đã vĩnh viễn bước ra khỏi cuộc hôn nhân của chúng tôi, bước ra khỏi gia đình của cô ấy để phiêu dạt trong một thế giới khác. Mọi cố gắng của tôi là vô phương. Chúng tôi chia tay trong một đêm trăng rằm cuối thu. Trăng chứng kiến cuộc tình tụ và tan của chúng tôi xoay quanh số phận kiếp người. Tụ và tan mong manh như giọt sương mai. Chúng tôi cùng ra đê sông Hồng ngồi nhớ lại quyết định lấy nhau, dắt tay nhau đi khắp phố phường Hà Nội nhưng giờ đây tất cả tan hoang đượm một màu ly biệt.
Tôi đã viết bài thơ tặng L, tiễn biệt một mối tình về quá khứ: "Đêm sông Hồng lặng lẽ chia tay em/ Mà buồn khói sóng đơn côi cõi lòng/ Trời trong xanh tóc rối bời theo gió/ Thổi sầu lên mờ tỏ áng mây trôi/ Một ánh sao băng một mảng đời rạn vỡ/ Cùng mối tình trắc trở cuộn về đâu". Tôi đã cất giấu một nỗi đau trong tim mình về một cuộc hôn nhân như đoá phù dung buồn. N
Hai năm sau ngày ly hôn, có một lần, tôi tình cờ gặp lại L đang ôm một đứa con nhỏ dạo chơi trong công viên gần nhà. Đứa con giống mẹ như hai giọt nước, kháu khỉnh như một thiên thần nhỏ. Thấy người lạ, nó nhoẻn cười toe toét, đâu biết trước nó là những con người với tấn bi kịch của quá khứ.
Tôi giơ tay đón đứa bé vào lòng trong một nỗi lóng ngóng khó tả. Mới ngày nào, mùi hương quen thuộc của L với những đứa con tôi, sao giờ đây, trong hoàn cảnh trớ trêu này, tôi thoáng nỗi ngậm ngùi chua xót. Chúng tôi ngồi lại bên nhau. Lúc này L đã lấy lại được thăng bằng, cô đã mở lòng với những tâm sự sâu kín. Hoá ra, lúc tôi ở nước ngoài về, L đã mang thai với người đàn ông ấy. L đã quá yêu, cô hy vọng đứa con sẽ là sợi dây ruột thịt thiêng liêng ràng buộc tình yêu giữa hai người. Nhưng người yêu của L không muốn sự có mặt của đứa con. Cuộc sống phóng túng của một người đàn ông quá nhiều hoài bão và khát vọng thật khó mà nắm giữ. Họ không thể nào đi đến một sự thống nhất. L kiên quyết giữ lại đứa con. Đứa con ra đời, tình yêu lãng mạn tan vỡ không tìm thấy bến bờ hạnh phúc. Cuộc sống của L chơi vơi giữa hai bến bờ. Thực lòng, tôi rất muốn giúp đỡ L, nhưng L vốn rất tự trọng, cô ấy không bao giờ nhận sự giúp đỡ của tôi.
Tôi viết thư cho con gái ở Thụy Điển đề nghị con động viên mẹ, bù đắp tinh thần cho mẹ và giúp đỡ thêm về mặt vật chất cho mẹ và em. Một tháng sau, tôi nhận được thư của con gái: "Cha thân yêu. Con đã nhận được thư cha. Con thực sự xúc động và cảm ơn về tấm lòng nhân hậu và bao dung của cha đã dành cho mẹ và em bé bỏng. Người phụ nữ dù cứng cỏi đến đâu cũng không tránh khỏi những giây phút yếu đuối mềm lòng trước cám dỗ nhiều chiều của cuộc đời...
Gia đình ta tan vỡ đã làm cho con sốc nặng và quá ư đau khổ. Nhưng cha biết đấy, giờ đây con đã lớn, đã từng trải, con hiểu và tha thứ cho tất cả lỗi lầm của mẹ. Cuộc đời của mẹ cũng là bài học cho con trên bước đường đời. Con đã có sự giúp đỡ mẹ cả tinh thần lẫn vật chất một năm nay. Mẹ con là người tự trọng và kiêu hãnh, lúc đầu mẹ từ chối nhưng sau đó con đã thuyết phục được mẹ. Giờ đây con chỉ xót lòng mỗi khi nghĩ đến hoàn cảnh một thân một mình cơm niêu nước lọ của cha. Những lúc vết thương tái phát, trái gió trở trời, nghĩ đến cha một mình đơn độc con lại khóc. Cầu mong cho cha sớm tìm được người bạn hiền để có thể chia sẻ với cha trong quãng đời còn lại.
Con báo cho cha một tin vui ấm lòng. Con đã liên lạc được với chị C.P ở Vientiane, hai chị em thương quý và hiểu nhau lắm. Chị nói đã nhận được thư cha và biết tin cha mẹ tan vỡ. Chị rất thương cha và cũng đã có thư chia sẻ an ủi cha. Cả hai chị em con tin rằng, cha là người mạnh mẽ, cha sẽ vượt qua những cơn bão lòng để làm lại cuộc sống mới. Chồng và con trai con đều khỏe và gửi lời hỏi thăm cha. Con gái yêu của cha. Lan".
Tôi đọc thư con gái trong nước mắt vui mừng vì thấy thực sự con đã trưởng thành. Lúc này tôi nhớ đến C.P, giọt máu rơi của tôi đang còn ở đất Lào với một tâm trạng cồn cào, da diết. Tôi mời anh Chăm Pô và xin phép anh cho con gái C.P sang Việt Nam thăm Hà Nội và Huế, quê cha đất tổ. Cuộc trùng phùng của mấy cha con thật cảm động, không làm sao nói hết được tâm trạng từng người...
Về công việc, trong hoàn cảnh lúc đó, vì có con gái kết hôn với người nước ngoài, tôi chủ động xin thôi mọi chức vụ về làm chuyên viên trong nhóm nghiên cứu và điều hành luật đầu tư nước ngoài. Vốn đã quen với cuộc đời trầm bổng, lúc lên voi, lúc xuống đất nên tôi thấy thanh thản vô cùng, dành nhiều thời gian cho công việc nghiên cứu mà mình yêu thích.
Tháng 8/1990, tôi rời sân bay Tân Sơn Nhất đi Paris dự một cuộc họp thương mại và đầu tư quốc tế. Khi kết thúc hội nghị, một chị Việt kiều đến gặp tôi, tự giới thiệu là Hồng, bạn của Tấm năm xưa. Hồng nói Tấm mới từ Thụy Sỹ sang Paris trông nhà cho con một năm nay. Hồng dúi cho tôi mẩu giấy ghi số điện thoại và số nhà của Tấm rồi vội vã theo chồng đi mất.
Đến lúc này, tôi vẫn chưa nhớ ra Hồng chính là người bạn năm xưa đã cho tôi biết thông tin Tấm bị ốm sau khi tôi gửi Tấm bài thơ tỏ tình nhưng mấy ngày tôi không gặp mặt Tấm, không thấy Tấm đi học. Hồi đó, Hồng là cứu cánh của tôi trong những giây phút lòng tôi cồn cào lửa đốt với nỗi nhớ thương lo lắng.
Ông trời thật trớ trêu. Bao nhiêu năm nay kết hợp với những chuyến công tác khắp năm châu bốn biển, hễ đến nơi nào có ai tên là Uất Kim Hương, tôi đều tìm đến với hy vọng mong manh biết đâu đó chính là Tấm. Tôi đã gặp bao nhiêu khuôn mặt, bao nhiêu số phận cảnh đời có tên Uất Kim Hương mà tuyệt đối không có Tấm. Sự tìm kiếm của tôi trải dài cùng năm tháng, đã đến lúc tưởng là vô vọng nhất thì hy vọng lại đột ngột đến trong tay. Tôi cầm mẩu giấy Hồng dúi cho bước về nhà mà hụt chân mấy lần ngã bươu đầu u cả trán mà chẳng thấy đau. Tâm trạng lâng lâng như người say rượu. Tôi có nên gặp Tấm không, cô ấy đã có gia đình rồi, liệu gặp lại có gây xáo động lớn trong cuộc sống của Tấm không.
Đang rối bời tâm trạng thì bỗng chuông điện thoại réo. Tôi bắt máy và nghe giọng Tấm từ đầu dây bên kia mà lòng òa ra nức nở. Vừa trả lời câu hỏi của Tấm, Tấm đã hét lên trong điện thoại rồi cứ thế sụt sùi nức nở khóc. Cô nói vừa biết tin tôi từ Hồng là gọi cho tôi ngay.
Chúng tôi ào đến bên nhau mà không thể chờ đợi thêm giây phút nào nữa. Xe vừa đưa tôi đến nhà Tấm thì đã thấy Tấm đợi tôi ngoài cổng. Vào đến phòng khách, chúng tôi ôm chầm lấy nhau sau 40 năm xa cách, và cứ thế Tấm nức nở khóc, nước mắt giàn giụa như trẻ thơ.
(Ảnh minh họa)
Tôi nói với Tấm còn 15 tiếng nữa là tôi bay về nước, Tấm vội vã nói như nghẹn, hôm nay chúng mình hãy dành tất cả thời gian ít ỏi này để kể cho nhau nghe đoạn đời thăng trầm 40 năm qua. Tấm kể từ lúc tôi đi kháng chiến, Tấm đã tự coi mình là con dâu trong nhà tôi, Tấm qua lại chăm sóc cha tôi như con dâu hiếu thảo. Năm 1953, không hiểu từ đâu, cha tôi đã gọi Tấm tới nhà và báo cho Tấm tin rằng tôi đã hy sinh. Tấm đau khổ tột cùng, suy sụp tinh thần. Trong lễ cầu siêu cho tôi, Tấm xin phép để tang cho tôi như là một người chồng.
Sau sự kiện đó cả cha tôi và cha Tấm đều trọng bệnh liên tiếp. Mặc dù được bác sỹ Hoàng tận tình cứu chữa nhưng cả hai đều không qua khỏi. Tấm đau khổ quá, bỏ nghề dạy học lên chùa Từ An nương nhờ cửa Phật cho yên phận cuộc đời. Nhưng số kiếp Tấm còn nặng nợ trần gian. Chính những lúc khổ đau nhất, bác sỹ Hoàng đã ở bên cạnh Tấm để cứu giúp. Anh Hoàng đỗ bác sỹ về Huế hành nghề. Số phận đã đưa đẩy hai người đến với nhau trong sự xô dạt của cuộc đời. Hoàng và Tấm lấy nhau và dắt díu nhau vào Sài Gòn, sau đó sang định cư ở Thụy Sĩ. Hai người có với nhau một con trai duy nhất tên là Mẫn. Cháu nối nghiệp bố học y khoa và đang hành nghề bác sỹ ở Alger. Hoàng là một bác sỹ tài năng, cứu được thiên hạ mà không cứu nổi bản thân mình. Hoàng mất đã 10 năm nay do một căn bệnh hiểm nghèo.
Thời gian chạy nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Mười lăm tiếng bên nhau chúng tôi đã trò chuyện với nhau, chia sẻ với nhau và dắt nhau đi một số địa danh nổi tiếng ở Paris. Ở nơi phương trời xa, tôi và Tấm đã dành cho nhau tất cả những tình cảm dồn nén của 40 năm dâu bể cộng lại. Sáng sớm hôm sau, tôi lên máy bay trở về nước. Tôi đã viết cho Tấm bài thơ chung thủy để gửi Tấm: "Bao nhiêu năm em đã xa anh/ Ở phương nào giữa trời cát bụi/ Để anh ôm mối tình trần trụi/ Suốt một đời ngày đợi đêm mong/ Mảnh vườn xưa em ươm còn đó/ Đợi em về tắm nắng thu phai/ Đùa với gió ru tình em hát/ Gội hương đêm thơm ngát mái đầu/ Căn phòng nhỏ cuối đông lạnh giá/ Đôi hồng đào hé nụ tầm xuân/ Dù có là tuyết hay băng/ Vẫn ấm lòng lửa tình cháy bỏng/ Bao nhiêu năm muôn đường xa vạn nẻo/ Bạc mái đầu vẫn nghĩ đến em/ Tình yêu xưa ấm nồng se lạnh/ Núi có dời cũng khó chuyển lay".
Hai năm sau, tôi nhận được quyết định nghỉ hưu. Theo đề nghị của lãnh đạo Bộ, tôi được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng ba, ghi nhận sự đóng góp của tôi trong suốt cả cuộc đời với cách mạng. Đây là sự việc nằm ngoài mong mỏi của tôi, vì thế tôi rất hạnh phúc. Tấm bay về Huế và tìm tôi để cùng trở về mảnh đất quê cha đất tổ. Tình yêu của Tấm và tôi như đại dương không thể tách rời mà còn nối lại. Chúng tôi không thể sống xa nhau thêm nữa, không thể sống với Huế bằng hoài niệm, nơi mà chúng tôi gửi gắm cả tuổi thanh xuân và mối tình trong sáng đầu đời. Chúng tôi mua lại khu vườn của cha mẹ Tấm và xây lại căn nhà cũ. Chúng tôi cố gắng phục hồi lại một căn nhà như xưa với những bụi Uất Kim Hương thơm ngát.
Bằng mọi nỗ lực, cả tôi và Tấm đã kết nối lại được tất cả các con trở về bên nhau chứng kiến cho mối tình của cha mẹ chúng. Cuối cùng, đại gia đình cũng đã tổ chức được một bữa tiệc đông đủ tại Huế trong ngày sinh nhật Tấm. Con trai Mẫn dắt theo vợ Pháp, con gái tôi dắt theo người chồng Thụy Điển, C.P dắt theo ông chồng Lào. Các con và cháu đủ sắc tộc, màu da ngồi quây quần bên ông bà chúc phúc cho chúng tôi trong niềm hạnh phúc vô bờ bến.
Ngày qua ngày, thỉnh thoảng, người ta thấy có hai vợ chồng già dắt nhau lên chùa Thiên Mụ, ngôi chùa huyền thoại phủ bụi thời gian, gắng kết đời sống tâm linh với dòng Hương Giang thơ mộng và mấy trăm năm xa xưa của một thời chúa Nguyễn đi mở cõi. Lặng lẽ đứng nhìn mây trời nước non và lắng nghe tiếng chuông chùa nguyện hồn ai buông lững lờ trong ráng nắng chiều tà.
Trông họ rất hạnh phúc vì tình yêu làm gì có tuổi.
Theo ANTG cuối tháng
