Căng thẳng Mỹ - Trung leo thang, dự báo kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá

15:49 | 04/09/2018

822 lượt xem
|
(PetroTimes) - Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục leo thang. Mặc dù vậy, kinh tế của Việt Nam được dự báo vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá.

Nhận định này được Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa đưa ra báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2018.

cang thang my trung leo thang du bao kinh te viet nam van tang truong kha
Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc được dự báo không ảnh hưởng đến tăng trưởng Việt Nam.

Kinh tế Việt Nam dự báo tăng trưởng khá

Báo cáo cho biết, kinh tế thế giới có nhiều biến động trong tháng 8/2018 bởi mối quan hệ căng thẳng giữa các nước lớn trong việc xác định vị thế mới của các nước này trong bối cảnh mới, như cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và các nước đồng minh, giữa Mỹ và Nga,…

Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục leo thang. Ngày 23/8/2018, Mỹ áp mức thuế 25% lên 16 tỷ USD hàng nhập khẩu Trung Quốc. Sau hai ngày đàm phán (ngày 22- 23/8), Mỹ và Trung Quốc đều không đạt được thỏa thuận nào giúp chấm dứt cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Giá cả hàng hóa thế giới diễn biến phức tạp theo tình hình của cuộc chiến tranh thương mại và cuộc khủng hoảng tài chính tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Mặc dù vậy, kinh tế của Việt Nam được dự báo vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá.

Ngày 21/8/2018, Moody’s đã đánh giá Việt Nam nhiều khả năng sẽ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 6,4% trong giai đoạn 2018-2022, giúp ổn định tình hình nợ công của Việt Nam, năng lực cạnh tranh được cải thiện, dòng chảy thương mại lành mạnh và tiêu dùng trong nước ở mức cao.

Trong bối cảnh hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam quý III và cả năm 2018 sẽ tiếp tục hưởng lợi từ sự phục hồi tăng trưởng kinh tế thế giới, tăng trưởng thương mại toàn cầu, từ tiến trình xúc tiến đàm phán các FTA.

Tuy nhiên, theo Bộ này, nhiệm vụ từ nay đến cuối năm vẫn còn hết sức nặng nề, đòi hỏi các bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục nỗ lực, tập trung chỉ đạo thực hiện.

Cụ thể, cần tiếp tục theo dõi sát diễn biến căng thẳng thương mại Trung - Mỹ và động thái của các đối tác thương mại và đầu tư chính; nghiên cứu, đánh giá tác động và khả năng ứng phó của Việt Nam. Có biện pháp ngăn chặn gia tăng nhập siêu từ Trung Quốc.

Đối với lạm phát, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, để bình ổn giá cả thị trường những tháng còn lại của năm 2018 cần theo dõi diễn biến thị trường các mặt hàng thiết yếu, xử lý các vấn đề phát sinh khi thị trường có biến động bất thường. Đồng thời, một số hàng hóa sẽ chịu tác động của các yếu tố như giá các mặt hàng nhóm nhiên liệu năng lượng, nhất là giá dầu thô đang diễn biến phức tạp.

Bên cạnh đó, cần chủ động công tác truyền thông để không gây tâm lý kỳ vọng lạm phát, bất ổn trên thị trường ngoại hối. Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống. Tiếp tục thông tin định kỳ với thị trường về công tác điều hành tỷ giá.

Đối với ngân sách nhà nước, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cần thực hiện nghiêm kỷ luật chi NSNN; đẩy mạnh các giải pháp nhằm giảm bội chi ngân sách, tăng thu ngân sách qua chống thất thu thuế, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách.

Cùng với đó, tiếp tục ưu tiên cải cách môi trường kinh doanh theo hướng tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trong nông nghiệp, cần đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, bám sát diễn biến thời tiết để kịp thời điều chỉnh linh hoạt kế hoạch sản xuất, đảm bảo hạn chế tối đa thiệt hại do diễn biến bất thường của thời tiết, nhất là ở những vùng thường xuyên bị thiên tai như Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.

Mục tiêu tăng trưởng 6,7% hoàn toàn khả thi

Nhận định về dự báo tăng trưởng Việt Nam, ông Nguyễn Bích Lân - Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, mục tiêu 6,7% là khá cao của nền kinh tế Việt Nam.

Ngay từ đầu năm Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng từ 6,5-6,7% và Quốc hội phê duyệt 6,7%. Với bức tranh kinh tế 6 tháng đầu năm, với những yếu tố năng lực mới tăng của nền kinh tế, chỉ đạo của Chính phủ tạo môi trường đầu tư, kinh doanh cho doanh nghiệp trong nước và quốc tế đầu tư vào Việt Nam, kịch bản tăng trưởng từng quý và từng nội dung thì mục tiêu 6,7% hoàn toàn có tính khả thi.

"Chúng tôi đã xây dựng từng ngành trong quý III tăng bao nhiêu và từng ngành tăng bao nhiêu, trên cơ sở đó Chính phủ sẽ có giải pháp điều hành cụ thể để đạt được mục tiêu cho từng quý.

Biện pháp đưa ra là kiên trì ổn định kinh tế vỹ mô qua chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, đồng thời có động lực cho cộng đồng doanh nghiệp đầu tư. Chính sách tài khóa cố gắng làm sao cho chi tiêu thường xuyên, chi tiêu công đầu tư hiệu quả, sớm giải ngân và hoàn thành các dự án lớn". - ông Lân nói.

Về vấn đề thị trường, theo ông Lân, các bộ, ngành cố gắng tạo ra sản phẩm tốt, tìm kiếm các thị trường tốt, độ mở nền kinh tế của Việt Nam khá cao, tổng giá trị xuất nhập khẩu/GDP là 200% nên tăng trưởng Việt Nam còn phụ thuộc vào thương mại toàn cầu.

Còn theo nhìn nhận của PGS.TS Trần Đình Thiên, thành viên Tổ tư vấn kinh tế Thủ tướng Chính phủ, ngay quý I, GDP đạt mức tăng trưởng kỷ lục trong 10 năm gần đây khi ở mức 7,38%, so với quý I/2017 là 5,15%, quý I/2016 là 5,48%, quý I/2015 là 5,12%.

Tiếp tục, quý II/2018, GDP tăng 6,79%, tính chung 6 tháng đầu năm tăng 7,08% cao nhất 7 năm qua. Tuy nhiên, ngay trong quý I/2018 khi GDP tăng rất cao tới 7,38%, nhưng Thủ tướng Chính phủ đã cho rằng cả năm 2018 có thể tăng trưởng GDP thấp hơn kỳ vọng. Điều này cho thấy Chính phủ chú trọng nhiều hơn đến ổn định vĩ mô và tập trung hơn nữa cho cải cách, hàm chứa tình hình thế giới cực kỳ bất thường theo hướng tiêu cực, làm cho dự báo tăng trưởng GDP giảm xuống.

"Môi trường đầu tư tại Việt Nam cũng được đánh giá rất tốt. Xếp hạng của Thornton về môi trường đầu tư của Việt Nam hết quý I/2018 cho thấy, mức độ hấp dẫn đầu tư so với các nước ASEAN đứng thứ nhất. Việt Nam vẫn tạo ra niềm tin về đầu tư từ những cải cách đã làm trong năm 2017.

Tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn cho rằng sự thiếu minh bạch và nhất quán trong các quy định, thủ tục đầu tư là rào cản lớn nhất khi đầu tư tại Việt Nam. Cảnh báo này là đúng. Năm nay, cải thiện đầu tư công vẫn rất chậm". - ông Thiên nói.

Theo ông Thiên, sự tăng trưởng của Việt Nam năm 2018 đang bị lo ngại từ các xu hướng bất ổn đang xuất hiện, nguy cơ lặp lại khủng hoảng tài chính thế giới chu kỳ 10 năm (khủng hoảng tiền tệ Đông Á năm 1997 - 1998 và khủng hoảng tài chính thế giới 2007-2008).

Việc điều hành và năng lực của Chính phủ đã tốt hơn với những kinh nghiệm về khủng hoảng trước đó. Tuy nhiên, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, Việt Nam ít nhiều bị ảnh hưởng. Tác động tài chính của cuộc chiến này mới là câu chuyện thiết thực nhất. Do đó, dự báo của Tổ tư vấn kinh tế Thủ tướng Chính phủ, GDP bình quân trong giai đoạn 2018 - 2020 có thể ở mức 6,85%.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

cang thang my trung leo thang du bao kinh te viet nam van tang truong kha Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 7% trong năm 2018
cang thang my trung leo thang du bao kinh te viet nam van tang truong kha Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung ảnh hưởng ra sao tới kinh tế Việt Nam
cang thang my trung leo thang du bao kinh te viet nam van tang truong kha ADB: Kinh tế Việt Nam 2018 tiếp tục tăng trưởng cao

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16486 16754 17332
CAD 18161 18437 19053
CHF 32034 32416 33063
CNY 0 3470 3830
EUR 29882 30155 31183
GBP 33965 34355 35281
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14473 15061
SGD 19725 20006 20528
THB 732 795 849
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26403
AUD 16735 16835 17760
CAD 18359 18459 19474
CHF 32248 32278 33873
CNY 0 3687.1 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30057 30087 31815
GBP 34221 34271 36037
HKD 0 3390 0
JPY 165.33 165.83 176.35
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14712 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19878 20008 20736
THB 0 761.9 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 09:00