Bộ trưởng Tài chính Mỹ: Nguy cơ suy thoái kinh tế đang giảm dần

11:10 | 24/06/2023

47 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo bà Janet Yellen, khả năng phục hồi của thị trường lao động và lạm phát giảm sẽ làm giảm nguy cơ suy thoái của Mỹ, nhưng cần phải giảm tốc độ tiêu dùng để kết thúc cuộc chiến lạm phát.

Trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin Bloomberg, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ - Janet Yellen nhận thấy nguy cơ Hoa Kỳ rơi vào suy thoái kinh tế đang giảm dần và gợi ý rằng, chúng ta cần chứng kiến sự chậm lại trong chi tiêu để kiểm soát lạm phát.

Bộ trưởng Tài chính Mỹ bày tỏ, lạm phát đã thực sự giảm đi rất nhiều và sẽ tiếp tục giảm thêm, một phần là do thị trường nhà đất dự kiến sẽ có sự điều chỉnh
Bộ trưởng Tài chính Mỹ bày tỏ, lạm phát đã thực sự giảm đi rất nhiều và sẽ tiếp tục giảm thêm, một phần là do thị trường nhà đất dự kiến sẽ có sự điều chỉnh. Ảnh: AP

Về khả năng xảy ra suy thoái, bà Yellen nhấn mạnh: "Theo tôi, nếu có thì nó đã giảm xuống, bởi hãy nhìn vào khả năng phục hồi của thị trường lao động và lạm phát đang giảm xuống. Tôi không cho rằng đó không phải là rủi ro, nhưng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) vẫn đang thắt chặt chính sách”. Bà Yellen muốn đề cập đến 10 lần tăng lãi suất của Fed kể từ tháng 3/2022 và có khả năng nhiều hơn nữa sẽ xảy ra.

Đánh giá mới nhất của vị Bộ trưởng về nền kinh tế Mỹ được đưa ra sau một báo cáo việc làm tháng 5 cho thấy số lượng việc làm đã tăng cao hơn tất cả các dự báo của các nhà kinh tế. Ngoài ra, hoạt động xây dựng nhà và doanh số bán lẻ trong tháng trước cũng phản ánh khả năng phục hồi đáng ngạc nhiên trước các biện pháp thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ của Fed.

Công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ vào tuần trước chỉ ra, tỷ lệ lạm phát cơ bản trong tháng 5 đã tăng 5,3% so với 12 tháng trước đó. Chi phí nhà ở tăng cao vào năm 2022, vốn có độ trễ khi tính vào CPI là nguyên nhân gây ra một số sự gia tăng đó.

Mới đây, phát biểu bên lề Hội nghị thượng đỉnh do Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tổ chức về “Hiệp ước tài chính toàn cầu mới” tại Paris, bà Yellen bày tỏ, lạm phát đã thực sự giảm đi rất nhiều và sẽ tiếp tục giảm thêm, một phần là do thị trường nhà đất dự kiến sẽ có sự điều chỉnh.

Hội nghị cũng tạo cơ hội để Bộ trưởng Tài chính Mỹ tương tác với Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường, người cũng tham dự sự kiện này, trong bối cảnh mối quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh còn căng thẳng. Bà Yellen bày tỏ, Trung Quốc đang “ngày càng có tính xây dựng hơn đối với nỗ lực lâu dài nhằm xóa nợ cho Zambia, quốc gia mà Bắc Kinh là chủ nợ chính thức hàng đầu".

Cũng trong hội nghị này, Zambia đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc cơ cấu lại khoản nợ của mình với các bên cho vay song phương. Điều đó tạo tiền lệ cho các quốc gia đang gặp khó khăn trong việc trả nợ.

Bộ trưởng Tài chính Mỹ - Janet Yellen tại phiên bế mạc Hội nghị thượng đỉnh về Hiệp ước tài chính toàn cầu mới vào ngày 23/6/ 2023 tại Paris. Ảnh: AP
Bộ trưởng Tài chính Mỹ - Janet Yellen tại phiên bế mạc Hội nghị thượng đỉnh về Hiệp ước tài chính toàn cầu mới vào ngày 23/6/ 2023 tại Paris. Ảnh: AP

Hiệp định mà bà Yellen thúc đẩy trong hơn 6 tháng qua, đã đánh dấu sự cứu trợ lớn đầu tiên mà một quốc gia đang phát triển giành được theo Khuôn khổ chung của nhóm các nền kinh tế lớn (G20), đưa các quốc gia chủ nợ ngồi cùng một bàn đàm phán với Trung Quốc và Ấn Độ.

“Sự tham gia gần đây của Trung Quốc vào các nỗ lực xóa nợ của Zambian có thể là một phần trong sáng kiến rộng lớn hơn của Bắc Kinh, nhằm cải thiện hình ảnh của mình trước cộng đồng quốc tế vào thời điểm có nhiều rủi ro kinh tế trong nước.

Cụ thể, trong những tuần gần đây, Trung Quốc đã cắt giảm lãi suất và áp dụng các biện pháp để vực dậy thị trường bất động sản, vốn đang chịu tác động quá lớn của đòn bẩy tài chính và hoạt động xây dựng. Các nhà hoạch định chính sách cũng ngày càng lo ngại về các vấn đề nhân khẩu học, bao gồm dân số giảm và tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao.

Họ có một số thách thức về kinh tế cả trung hạn và ngắn hạn. Tôi nghĩ họ muốn đảm bảo rằng, Trung Quốc vẫn đang duy trì một môi trường tích cực cho đầu tư nước ngoài”, bà Yellen nhận xét.

Đối với cuộc tranh luận giữa một số nhà kinh tế về việc liệu Fed có nên nâng mục tiêu lạm phát từ mức 2% đã được áp dụng trong thời kỳ tăng trưởng và đầu tư yếu kém hay không, Bộ trưởng Tài chính Mỹ chỉ ra rằng, cuộc thảo luận như vậy không phù hợp vào thời điểm mà các nhà hoạch định chính sách đang chiến đấu để ngăn chặn đà tăng giá. Chúng ta có thể có một cuộc tranh luận thú vị về mục tiêu lạm phát sẽ là bao nhiêu, nhưng đây không phải là thời điểm để trao đổi.

Tương tự, Chủ tịch Fed - Jerome Powell cũng đã bác bỏ ý tưởng thay đổi mục tiêu lạm phát 2%, quan điểm này được ông đã nhắc lại trước Quốc hội trong tuần này.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Các công ty năng lượng của Mỹ giảm hoạt động khai thác và thăm dò trong tuần thứ tám liên tiếpCác công ty năng lượng của Mỹ giảm hoạt động khai thác và thăm dò trong tuần thứ tám liên tiếp
Đức và Mỹ ký thoả thuận LNG dài hạn, quyết Đức và Mỹ ký thoả thuận LNG dài hạn, quyết "cai nghiện" khí đốt Nga
Vai trò của LNG trong tổng sản lượng điện ở Mỹ hiện nayVai trò của LNG trong tổng sản lượng điện ở Mỹ hiện nay

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 06/07/2025 10:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 06/07/2025 10:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 06/07/2025 10:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 06/07/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 06/07/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 06/07/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 06/07/2025 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/07/2025 10:45