Báo cáo ngành điện của VNDIRECT: Điện khí và các nhà máy điện than miền Bắc sẽ hưởng lợi
Công ty CPCK VNDIRECT vừa đưa ra báo cáo nhận định về ngành điện với các luận điểm sau:
Tăng trưởng sản lượng điện 2023 dự kiến thấp hơn so với dự báo QHĐ8
Trong 2023, kỳ vọng tăng trưởng tiêu thụ điện 6% so với cùng kỳ (svck), thấp hơn 28% so với kịch bản thấp trong QHĐ8 do nhu cầu điện công nghiệp suy yếu. Tuy nhiên, VNDIRECT kỳ vọng vào một mùa hè nền nhiệt cao sẽ thúc đẩy mức tiêu thụ nhóm dân cư trong giai đoạn quý III/2023. Trong 2024-2030, VNDIRECT cho rằng tiêu thụ điện Việt Nam sẽ duy trì ở mức kịch bản cơ sở với tăng trưởng kép trung bình 8,4% theo QHĐ8.
Mặc dù giá bán lẻ đã chính thức tăng 3% từ tháng 5/2023, VNDIRECT cho rằng vẫn còn sớm để kỳ vọng vào một sự cải thiện rõ rệt. Với việc tiếp tục đề xuất tăng thêm 3%, nếu giải pháp này được thông qua sẽ hỗ trợ tích cực hơn tình hình tài chính của EVN nhằm cải thiện dòng tiền thanh toán cho các nhà máy. Về tình trạng thiếu điện ở miền Bắc, chúng tôi không nhìn ra giải pháp khả thi trong ngắn hạn. Trong dài hạn, việc bổ sung công suất mới tại miền Bắc cũng như nâng cấp hệ thống truyền tải là nhiệm vụ cấp bách.
Điện khí và các nhà máy điện than miền Bắc sẽ hưởng lợi trong 2023-2024 trong bối cảnh thủy điện suy yếu. |
Sản lượng nhiệt điện cải thiện trong bối cảnh thủy điện suy yếu trong 2023
Trong 2023-2024, VNDIRECT kỳ vọng sản lượng điện khí cải thiện nhờ: 1) Thủy điện suy yếu sẽ tạo dư địa huy động cho các nguồn nhiệt điện; 2) Tình trạng dư thừa công suất ở miền Nam sẽ dần được hấp thụ khi hoạt động công nghiệp của Việt Nam hồi phục. Đối với nhiệt điện than, chúng tôi nhận thấy các nhà máy nhiệt điện tại miền Bắc sẽ hưởng lợi sớm nhất do nguồn than ổn định và chi phí vận chuyển rẻ. Chúng tôi cho rằng tình trạng thiếu điện tại miền Bắc sẽ củng cố triển vọng huy động sản lượng điện than, đặc biệt khi dự kiến khu vực sẽ trải qua giai đoạn nắng nóng hơn.
…
VNDIRECT chọn POW, PC1 và đưa QTP, GEG, BCG, NT2 vào danh mục theo dõi
POW: VNDIRECT cho rằng, POW - doanh nghiệp điện khí hàng đầu sẽ được hưởng lợi từ xu hướng phát triển công suất điện khí mạnh mẽ theo những định hướng rõ ràng trong QHĐ8. Doanh nghiệp đang là chủ đầu tư của một trong những dự án trọng điểm, dự kiến sẽ là nhà máy điện khí sử dụng LNG đầu tiên tại Việt Nam - Nhơn Trạch 3&4 (1.600MW), đồng thời liên doanh đầu tư (30%) vào một dự án điện khí khác đó là LNG Quảng Ninh (1.500MW). Trong khi Nhơn Trạch 3&4 sẽ đi vào vận hành từ lần lượt Q4/24 và Q2/25, LNG Quảng Ninh sẽ triển khai trong giai đoạn 2025-2030.
Trong 2023-2024, dự kiến LN ròng của POW sẽ tăng trưởng kép 15% bởi: 1) Nhu cầu đột biến từ nhóm tiêu dùng dân cư trong mùa hè sẽ là yếu tố hỗ trợ huy động sản lượng của các nhà máy nhiệt điện, đặc biệt trong bối cảnh thủy điện ghi nhận thủy văn kém thuận lợi; 2) Xu hướng giảm của giá dầu Brent và giá dầu FO sẽ kéo theo giá bán điện giảm, hỗ trợ tình hình huy động các nguồn nhiệt điện trên thị trường điện cạnh tranh, trong khi giá LNG thế giới đang giảm nhanh là động lực thúc đẩy tiến độ đàm phán PPA, GSA cho Nhơn Trạch 3&4; 3) Kỳ vọng một số những khoản LN bất thường được ghi nhận trong năm nay bao gồm khoản bồi thường Vũng Áng 1, và thoái vốn EVN Việt Lào; 4) Sự quay trở lại của tổ máy 1 Vũng Áng 1 (600MW) từ quý III/2023 sau thời gian dài sửa chữa sẽ hỗ trợ kết quả sản lượng tích cực hơn.
PC1: Dự báo 2024 sẽ là giai đoạn ghi nhận tăng trưởng LN ròng tốt cho PC1, hỗ trợ bởi các hoạt động mở rộng kinh doanh ở nhiều ngành nghề, làm dày hơn hệ sinh thái của công ty bao gồm khai khoán Niken, Bất động sản KCN và BDS nhà ở. VNDIRECT kỳ vọng mức tăng trưởng kép EPS đạt 35% giai đoạn 2023-2024 từ mức thấp 2022. Những áp lực từ tỉ giá sẽ giảm trong 2023 và áp lực lãi vay sẽ hạ nhiệt từ 2024, hỗ trợ kết quả lợi nhuận tích cực hơn trong giai đoạn này.
Hơn nữa, PC1 với vị thế là nhà thầu EPC điện gió và xây lắp điện hàng đầu sẽ được hưởng lợi sớm nhất khi QHĐ8 được ban hành và các vướng mắc trong chính sách giá mới cho NLTT được tháo gỡ. VNDIRECT cho rằng khối lược công việc lớn trong QHĐ8 sẽ củng cố triển vọng nhóm xây lắp điện, đặc biệt sau khi miền Bắc trải qua tình trạng thiếu điện nghiêm trọng cũng như tình hình cắt giảm công suất tại miền Nam. Đây sẽ là những động lực để PC1 tiếp tục nâng tỷ lệ back-log ký mới trong tương lai.
NT2: Trong 2023, NT2 sẽ có lịch đại tu, thông thường diễn ra trong 45 ngày. Dự báo doanh thu và LN ròng 2023 sẽ giảm 16% svck và 23% svck sau khi hồi phục 13% svck và 28% svck trong 2024.
Luận điểm đầu tư đáng chú ý nhất của NT2 không hoàn toàn đến từ tăng trưởng LN mà bao gồm sức khỏe tài chính lành mạnh và nguồn cổ tức ổn định. NT2 đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ dài hạn từ 2021 và hiện tại, doanh nghiệp ghi nhận dòng tiền dồi dào. Kỳ vọng NT2 sẽ duy trì trả cổ tức đều đặn ít nhất 15%/năm, với nhu cầu vốn từ công ty mẹ POW là một trong những động lực chính.
QTP: Câu chuyện của QTP đang khá giống với luận điểm đầu tư NT2, bao gồm nợ vay sắp hết và chính sách cổ tức ổn định. Hơn nữa, dự kiến Quảng Ninh 2 sẽ hết khấu hao từ 2024, hỗ trợ cải thiện biên LN của doanh nghiệp.
VNDIRECT cho rằng, điện than tại miền Bắc sẽ hưởng lợi trong giai đoạn 2023-2024 nhờ: 1) Nhu cầu điện miền Bắc dự kiến tăng mạnh trong các năm tới, với rủi ro thiếu điện hiện hữu khi công suất phát triển thêm tại khu vực này đang không cao; 2) QTP hưởng lợi từ vị trị đặt nhà máy thuận lợi, gần mỏ than có chi phí vận chuyển thấp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng được đảm bảo một nguồn than ổn định từ TKV, đảm bảo nguồn đầu vào và hỗ trợ huy động sản lượng tích cực hơn.
BCG: KQKD Q1/23 của BCG giảm mạnh 44% svck xuống còn 701,3 tỷ đồng do ghi nhận doanh thu mảng xây dựng thấp hơn từ Tracodi cũng như thị trường bất động sản đóng băng. Tuy nhiên, tiềm năng tăng trưởng của BCG cả trong ngắn hạn và dài hạn nhờ: (1) Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí lãi vay; (2) Bàn giao lượng lớn sản phẩm từ các dự án đã mở bán.
Kỳ vọng BCG sẽ bàn giao một phần dự án Hội An D'Or và Malibu Hội An trong năm 2023, mang lại doanh thu 2.495 tỷ đồng (+130% scvk), và ghi nhận doanh thu đạt 2.012 tỷ đồng (-19% svck) trong năm 2024; (3) Năng lượng tái tạo là nền tảng cho tăng trưởng dài hạn. Dự báo doanh thu mảng điện của BCG sẽ đạt 1.186 tỷ đồng (+11% svck) trong năm 2023 và 1.643 tỷ đồng (+38% svck) trong năm 2024. Ngoài ra, BCG đang có danh mục khoảng 670 MW đang chờ cơ chế giá mới cho các dự án NLTT để tiếp tục triển khai.
GEG: GEG nằm trong nhóm những doanh nghiệp NLTT hàng đầu, với tổng công suất đạt 556MW, bao gồm 81MW thủy điện, 245MW điện mặt trời và 230MW điện gió. Trong đó, điện gió Tân Phú Đông 1 (100MW) đã chính thức vận hành từ tháng 6/2023 với giá tạm là 908 đồng/kWh (50% giá trần khung giá chuyển tiếp). Hiện tại GEG đang tích cực đàm phán với Bộ Công thương và dự kiến mức giá chính thức sẽ vào khoảng 1.815 đồng/kWh.
Tân Phú Đông 1 đi vào vận hành sẽ phần nào cải thiện dòng tiền của doanh nghiệp để thanh toán các nghĩa vụ nợ khá cao của mình. Trong 2024, GEG dự kiến đưa vào vận hành 1 dự án điện gió - VPL2 Bến Tre (30MW) và 1 dự án điện mặt trời Đức Huệ 2 (49MW), củng cố vị thế doanh nghiệp tái tạo hàng đầu trên thị trường.
Hơn nữa, GEG có cơ hội để cải thiện cấu trúc tài chính nhờ nhóm cổ đông lớn là những tập đoàn hàng đầu trong ngành bao gồm TEPCO - Nhật Bản và DEG - Đức. Doanh nghiệp tự tin có thể tiếp cận được các nguồn vốn xanh giá rẻ trong thời gian tới.
Theo kinhtechungkhoan.vn
- LNG khẳng định là nguồn nguyên liệu quan trọng trong sản xuất điện
- Năm 2030, Việt Nam có 9 dự án nhiệt điện khí trong nước và 10 dự án nhiệt điện LNG
- Bài 12: Cần khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào điện khí LNG
- Bài 11: TS Thái Doãn Hoàng Cầu: Phát triển điện lực hiệu quả, bền vững cần các cơ chế thị trường điện
- Bài 10: Phát triển điện khí ở Việt Nam dưới góc nhìn của các chuyên gia