Bán hàng rong bất ngờ trở thành “huyết mạch” của kinh tế đô thị Trung Quốc

16:56 | 07/06/2020

200 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Từ chỗ là đối tượng gây chướng tai gai mắt giới quản lý đô thị Trung Quốc, những người bán hàng rong đột nhiên trở thành niềm hi vọng của chính quyền trong nỗ lực khởi động nền kinh tế sau Covid-19.

Ít nhất 27 thành phố ở Trung Quốc, bao gồm các đô thị lớn như Thượng Hải và Quảng Châu, đã tuyên bố sẽ nới lỏng quy chế đối với hoạt động kinh tế vi mô nhằm tối đa hóa sức tiêu thụ và giảm thiểu gánh nặng của tình trạng thất nghiệp do ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Chính quyền địa phương đang đưa ra các chính sách tạm thời cho phép những người bán hàng rong hoạt động ở nhiều khu vực hơn, kèm theo đó là các khoản vay ngân hàng và cơ hội cho những người kinh doanh không giấy phép.

Bán hàng rong bất ngờ trở thành “huyết mạch” của kinh tế đô thị Trung Quốc
Những người bán hàng rong là chìa khóa giúp đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hóa và giảm tình trạng thất nghiệp ở Trung Quốc. Ảnh: Sixth Tone.

Trước đây, các quan chức quản lý đô thị luôn xua đuổi và tịch thu hàng hóa của những người bán hàng rong. Nhưng giờ đây, họ lại khuyến khích các tiểu thương đường phố hoạt động trở lại.

Hiện tại, các gã khổng lồ về thương mại điện tử như Alibaba hay JD.com đều đang cung cấp những khoản vay không lãi suất để hỗ trợ các cơ sở kinh doanh đường phố. Trong khi đó, cổ phiếu của các nhà sản xuất ô tô địa phương chế tạo nên các gian hàng di động đang tăng vọt và những từ khóa như “cách kinh doanh hàng rong” đã đạt mức tìm kiếm cao nhất trong 10 năm qua trên công cụ tìm kiếm Baidu.

“Tôi thấy thật hài hước. Giới quản lý đô thị từng cấm hoạt động buôn bán nhỏ, nhưng giờ đây họ lại cấp giấy phép cho những người bán rong”, một người phụ nữ tên Li từng sở hữu một gánh hàng rong chia sẻ.

Li từng có một gian hàng nhỏ bán túi thủ công trên phố đi bộ gần trường đại học Bắc Kinh vào năm 2014. Cô gái gốc Tân Thiên hồi ấy từng coi gánh hàng rong là cơ hội để tích lũy kinh nghiệm cho hoạt động kinh doanh trong tương lai. Li cho biết trong khoảng thời gian kinh doanh không giấy phép cũng có rất nhiều người giống như cô làm công việc này để phụ giúp gia đình. Cô từng nhiều lần chứng kiến những vụ đụng độ giữa các chủ hàng rong và giới chức thành phố.

“Bán hàng như thế giống một cuộc chiến du kích. Tôi phải trốn khi cán bộ quản lý đô thị tới và chỉ quay trở lại khi mà họ đã rời đi. Hồi mới kinh doanh, thậm chí tôi còn bỏ hàng lại", Li kể.

Sự thay đổi trong thái độ của Trung Quốc đối với ngành kinh doanh phi chính thức này xảy ra vào thời điểm quốc gia tỷ dân đang nỗ lực hết sức để đưa nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh trở lại bình thường, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong chuyến thăm tới tỉnh Sơn Đông hôm 1/6, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã mô tả những người bán hàng rong là “huyết mạch của Trung Quốc”.

Bán rong là hoạt động quan trọng trong tiến trình đô thị hóa của Trung Quốc và là nguồn thu nhập cho hàng triệu người không có công việc ổn định hoặc người lao động thu nhập thấp.

Giáo sư Huang Gengzhi, giảng viên bộ môn Địa lý đô thị tại Đại học Yat-sen, tin rằng chính phủ Trung Quốc cần hiểu rõ giá trị kinh tế của các gánh hàng rong và trao cho họ những cơ sở pháp lý để hoạt động - chính sách mà các quốc gia khác như Singapore đã triển khai.

“Quan điểm của tôi là chính phủ cần có tầm nhìn dài hạn đối với các gánh hàng rong. Họ nên coi hoạt động bán rong như một phần của nền kinh tế đô thị đang phát triển”, ông Huang cho biết. Vị giáo sư cũng nói thêm rằng chính quyền không nên thực hiện những nỗ lực nhất thời, bởi nếu làm vậy, họ sẽ lãng phí rất nhiều nguồn lực công.

Thời kỳ hậu đại dịch có thể đã khiến giới quản lý đô thị nhìn nhận khác về các gánh hàng rong, ít nhất ở thời điểm hiện tại. Các chính sách thân thiện được đưa ra để khuyến khích người bán rong quay trở lại phố xá lần đầu tiên trong nhiều tháng qua. Đương nhiên, giới bán rong cũng rất mong muốn cơ hội trở lại.

Chẳng hạn, ở thành phố Thành Đô phía tây nam tỉnh Tứ Xuyên, chính quyền đã dựng lên 36.000 quầy bán hàng di động vào cuối tháng 5, theo giới truyền thông địa phương đưa tin. 36.000 quầy ấy tạo ra khoảng 100.000 việc làm và khuấy động hoạt động kinh tế trong thành phố. Thủ tướng Lý Khắc Cường đã đánh giá cao sáng kiến của Thành Đô trong hai kỳ họp quốc hội vào tháng trước.

Song các chuyên gia cho rằng hoạt động kinh tế sôi nổi vẫn không thể ẩn giấu đi những vấn đề cơ bản. Giới truyền thông đưa tin về tình trạng rác thải nhiều lên, tắc đường, giá thuê tăng do nhiều người bán rong cùng thuê một quầy di động. Nguy cơ lây lan Covid-19 cũng khá lớn trong bối cảnh các ca nhiễm do tiếp xúc vẫn xuất hiện ở khắp nơi trên cả nước.

Ở những thành phố như Quảng Châu, các chính sách hiện hành đối với người bán hàng rong không đồng đều. Giáo sư Huang nói rằng giới chức ưu tiên những người có hộ khẩu khi chọn người bán hàng trong khu vực mà chính quyền quy định. Khi nới lỏng chính sách, thành phố vẫn không cho phép những người không có giấy phép bán hàng hoạt động.

"Trong giai đoạn sau dịch Covid-19, nền kinh tế bán rong nên đóng vai trò như chính sách hỗ trợ sinh kế. Nếu giới chức phải lựa chọn, tôi nghĩ họ không nên dựa vào hộ khẩu, bởi rất nhiều người nhập cư đang sống ở Quảng Châu" - Giáo sư Huang bình luận.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,500 85,700
AVPL/SJC HCM 83,500 85,700
AVPL/SJC ĐN 83,500 85,700
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 74,250
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 73,950
AVPL/SJC Cần Thơ 83,500 85,700
Cập nhật: 04/05/2024 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.100 74.950
TPHCM - SJC 83.500 85.800
Hà Nội - PNJ 73.100 74.950
Hà Nội - SJC 83.500 85.800
Đà Nẵng - PNJ 73.100 74.950
Đà Nẵng - SJC 83.500 85.800
Miền Tây - PNJ 73.100 74.950
Miền Tây - SJC 83.500 85.800
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.100 74.950
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.100
Giá vàng nữ trang - SJC 83.500 85.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.100
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.000 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.100 55.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.920 43.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.450 30.850
Cập nhật: 04/05/2024 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,295 7,495
Trang sức 99.9 7,285 7,485
NL 99.99 7,290
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,270
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,360 7,525
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,360 7,525
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,360 7,525
Miếng SJC Thái Bình 8,360 8,580
Miếng SJC Nghệ An 8,360 8,580
Miếng SJC Hà Nội 8,360 8,580
Cập nhật: 04/05/2024 04:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,500 85,800
SJC 5c 83,500 85,820
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,500 85,830
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 73,000 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 04/05/2024 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,290.45 16,455.00 16,982.87
CAD 18,135.12 18,318.30 18,905.94
CHF 27,242.56 27,517.74 28,400.50
CNY 3,438.77 3,473.50 3,585.47
DKK - 3,590.52 3,728.01
EUR 26,579.41 26,847.89 28,036.75
GBP 31,065.04 31,378.83 32,385.45
HKD 3,170.39 3,202.41 3,305.15
INR - 303.91 316.06
JPY 160.99 162.62 170.39
KRW 16.07 17.86 19.48
KWD - 82,463.57 85,760.23
MYR - 5,312.32 5,428.17
NOK - 2,268.79 2,365.11
RUB - 265.48 293.88
SAR - 6,758.91 7,029.11
SEK - 2,294.29 2,391.69
SGD 18,312.06 18,497.03 19,090.41
THB 610.05 677.83 703.78
USD 25,113.00 25,143.00 25,453.00
Cập nhật: 04/05/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,474 16,494 17,094
CAD 18,253 18,263 18,963
CHF 27,553 27,573 28,523
CNY - 3,438 3,578
DKK - 3,576 3,746
EUR #26,483 26,693 27,983
GBP 31,313 31,323 32,493
HKD 3,122 3,132 3,327
JPY 161.92 162.07 171.62
KRW 16.54 16.74 20.54
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,257 2,377
NZD 15,010 15,020 15,600
SEK - 2,274 2,409
SGD 18,264 18,274 19,074
THB 638.72 678.72 706.72
USD #25,120 25,120 25,453
Cập nhật: 04/05/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,153.00 25,453.00
EUR 26,686.00 26,793.00 27,986.00
GBP 31,147.00 31,335.00 32,307.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,299.00
CHF 27,353.00 27,463.00 28,316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16,377.00 16,443.00 16,944.00
SGD 18,396.00 18,470.00 19,019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18,223.00 18,296.00 18,836.00
NZD 14,893.00 15,395.00
KRW 17.76 19.41
Cập nhật: 04/05/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25184 25184 25453
AUD 16515 16565 17070
CAD 18390 18440 18895
CHF 27733 27783 28345
CNY 0 3473.7 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3640 0
EUR 27045 27095 27805
GBP 31665 31715 32375
HKD 0 3250 0
JPY 163.84 164.34 168.88
KHR 0 5.6733 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.0875 0
MYR 0 5520 0
NOK 0 2305 0
NZD 0 14985 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2320 0
SGD 18583 18633 19190
THB 0 650 0
TWD 0 780 0
XAU 8350000 8350000 8550000
XBJ 6500000 6500000 7280000
Cập nhật: 04/05/2024 04:00