Tăng trưởng xanh - những vấn đề cần đặt ra:

Bài 6: Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời

06:38 | 13/08/2024

19,497 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, hiện các khoản tín dụng xanh và trái phiếu xanh dành cho các dự án điện gió, điện mặt trời… vẫn chỉ là những khoản cho vay hoặc đầu tư thông thường với đầy đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, lãi suất, kỳ hạn mà không có ưu tiên, ưu đãi nào.

Tại tọa đàm "Triển vọng phát triển Tài chính xanh" do Tạp chí Đầu tư Tài chính tổ chức, các chuyên gia rằng, việc thúc đẩy tài chính xanh rất quan trọng nhằm điều hướng nguồn lực tài chính vào các dự án thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, dù bắt đầu từ sớm nhưng khung pháp lý về tài chính xanh, kinh tế xanh vẫn chưa được như kỳ vọng. Do đó, rất cần có những giải pháp cụ thể và khả thi nhằm thúc đẩy lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Bài 6: Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời
Chuyên gia kinh tế, TS. Lê Xuân Nghĩa

Liên quan đến chính sách hỗ trợ cho tài chính xanh, chuyên gia kinh tế TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết, chúng ta đang nói rất nhiều nhưng làm rất ít. "Thực tế, các khoản tín dụng xanh và trái phiếu xanh dành cho các dự án điện gió, điện mặt trời… vẫn chỉ là những khoản cho vay hoặc đầu tư thông thường với đầy đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, lãi suất, kỳ hạn mà không có ưu tiên, ưu đãi nào.

TS. Nghĩa lấy ví dụ, Quỹ của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho vay khắt khe như ngân hàng thương mại, chỉ có lãi suất thấp hơn. Theo đó, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý với tổng nguồn vốn 1.800 tỷ đồng, chỉ cho vay vào các dự án xử lý rác thải với điều kiện nghiêm ngặt như những khoản tín dụng bình thường. Để vay tiền từ quỹ này, doanh nghiệp cũng cần phải có tài sản đảm bảo, tuân thủ hạn mức tín dụng, chỉ có lãi suất thấp hơn thị trường 2%.

Theo TS. Nghĩa, đây chưa thể được coi là một quỹ tài chính xanh và quy mô của nó lại càng không tương xứng với nhu cầu về tài chính xanh mà Ngân hàng Thế giới ước tính là chúng ta cần tới 360 – 400 tỷ USD để chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính từ nay đến 2030.

Cũng theo TS. Lê Xuân Nghĩa, tại Việt Nam, Bộ Tài chính – cơ quan ngân sách của nhà nước, cần có sự quan tâm đúng mức. "Tiền dành cho tài chính xanh phải từ ngân sách đi ra", ông Nghĩa nhấn mạnh.

Cũng tại Tọa đàm, ông Nguyễn Tùng Anh, Trưởng phòng Nghiên cứu Tín dụng và Dịch vụ Tài chính xanh thuộc FiinRatings chia sẻ, mặc dù ghi nhận tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với tín dụng chung, tín dụng xanh hiện chỉ chiếm 4,32% tổng dư nợ của nền kinh tế, cho thấy vẫn còn nhiều dư địa phát triển.

Theo ông Tùng Anh, thị trường trái phiếu xanh đã chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về cả số lượng và giá trị phát hành trong năm 2022. Để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường tài chính xanh, ông cho rằng cần nâng cao nhận thức của nhà đầu tư và chấp nhận vấn đề ngoại ứng. “Để thị trường trái phiếu xanh và tín dụng xanh phát triển bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng,” ông nói.

Ông cũng đề xuất nâng cao năng lực và kiến thức của các nhà hoạch định chính sách về sản phẩm tài chính xanh, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập các tiêu chí và quy định rõ ràng về thị trường tài chính xanh, cùng với cơ chế kiểm soát để đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy.

Bài 6: Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời
Chưa có ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án điện gió, điện mặt trời/Ảnh minh họa

Theo TS.Võ Trí Thành, chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu, là mệnh lệnh chính trị không thể chối từ. Phát triển xanh không chỉ là cam kết chính trị mạnh mẽ của cả quốc gia, mà là mệnh lệnh từ chính thị trường, người tiêu dùng yêu cầu xanh hơn, an toàn hơn; từ chính yêu cầu của các nước phát triển; từ tài chính, không xanh không cho vay.

"80% lượng vốn tài chính đòi hỏi ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) mới cấp vốn. Mệnh lệnh này là rất cấp bách. Với doanh nghiệp, không chỉ là tồn tại hay không tồn tại, mà còn nắm bắt được nhiều cơ hội mới khi phát triển xanh", ông Thành nói.

Ông Thành nhấn mạnh tài chính xanh là cuộc cách mạng về thể chế, công nghệ với nhiều điểm mới như tiêu chí, tiêu chuẩn xanh, nguồn gốc xuất xứ xanh…

Theo ông Thành, việc đưa vấn đề "xanh" vào thị trường không phải là vấn đề đơn giản. Với vấn đề của thể chế, chuyển đổi xanh là quá trình đầy thách thức, đòi hỏi thay đổi từ tư duy, nhận thức, thay đổi thể chế, ban hành khung pháp lý, chính sách, đào tạo thay đổi trong hành động, đòi hỏi sự tham gia của cả các tổ chức, người dân và doanh nghiệp.

"Như vậy, không chỉ doanh nghiệp hay nhà nước muốn là làm được mà cần có sự nỗ lực từ cả Chính phủ và các tổ chức, người dân và doanh nghiệp. Tóm lại đây là một sự chuyển đổi từ "dưới lên" và từ "trên xuống", ông Thành nhấn mạnh.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà cũng chỉ ra rằng, mặc dù Việt Nam đã bắt đầu xây dựng khung pháp lý về tài chính xanh từ nhiều năm trước, nhưng tiến độ vẫn còn chậm. Ông cho rằng cần có nhiều quy định rõ ràng hơn về thị trường tín chỉ carbon và các tiêu chí xanh cho từng ngành để thúc đẩy sự phát triển của tài chính xanh tại Việt Nam.

Huy Tùng ( lược ghi)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank
  • bao-hiem-pjico
  • rot-von-duong-dai-agri
  • vpbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 82,650 82,900
Nguyên liệu 999 - HN 82,550 82,800
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 08/10/2024 03:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 82.700 83.600
TPHCM - SJC 82.000 84.000
Hà Nội - PNJ 82.700 83.600
Hà Nội - SJC 82.000 84.000
Đà Nẵng - PNJ 82.700 83.600
Đà Nẵng - SJC 82.000 84.000
Miền Tây - PNJ 82.700 83.600
Miền Tây - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 82.700 83.600
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 82.700
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 82.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.600 83.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 82.520 83.320
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.670 82.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 75.990 76.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.300 62.700
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.460 56.860
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 52.960 54.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.620 51.020
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.540 48.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.440 34.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.030 31.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.270 27.670
Cập nhật: 08/10/2024 03:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,190 8,360
Trang sức 99.9 8,180 8,350
NL 99.99 8,230
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 8,210
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,280 8,370
Miếng SJC Thái Bình 8,200 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,200 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,200 8,400
Cập nhật: 08/10/2024 03:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 84,000
SJC 5c 82,000 84,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 84,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 82,000 83,300
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 82,000 83,400
Nữ Trang 99.99% 81,950 83,000
Nữ Trang 99% 80,178 82,178
Nữ Trang 68% 54,096 56,596
Nữ Trang 41.7% 32,264 34,764
Cập nhật: 08/10/2024 03:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,467.24 16,633.58 17,167.80
CAD 17,835.20 18,015.36 18,593.95
CHF 28,236.47 28,521.69 29,437.72
CNY 3,451.10 3,485.96 3,597.92
DKK - 3,590.39 3,728.01
EUR 26,571.32 26,839.72 28,029.23
GBP 31,784.37 32,105.43 33,136.55
HKD 3,118.28 3,149.78 3,250.94
INR - 295.14 306.94
JPY 161.63 163.26 171.03
KRW 15.96 17.73 19.24
KWD - 81,061.30 84,304.94
MYR - 5,764.16 5,890.08
NOK - 2,283.17 2,380.19
RUB - 248.93 275.58
SAR - 6,601.08 6,865.22
SEK - 2,348.27 2,448.06
SGD 18,573.84 18,761.45 19,364.01
THB 656.65 729.61 757.58
USD 24,640.00 24,670.00 25,030.00
Cập nhật: 08/10/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,640.00 24,660.00 25,000.00
EUR 26,714.00 26,821.00 27,941.00
GBP 31,976.00 32,104.00 33,096.00
HKD 3,132.00 3,145.00 3,250.00
CHF 28,403.00 28,517.00 29,413.00
JPY 163.41 164.07 171.59
AUD 16,580.00 16,647.00 17,159.00
SGD 18,701.00 18,776.00 19,330.00
THB 722.00 725.00 757.00
CAD 17,943.00 18,015.00 18,562.00
NZD 15,059.00 15,566.00
KRW 17.66 19.48
Cập nhật: 08/10/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24670 24670 25030
AUD 16524 16624 17186
CAD 17931 18031 18582
CHF 28527 28557 29351
CNY 0 3503.8 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3644 0
EUR 26785 26885 27757
GBP 32063 32113 33215
HKD 0 3180 0
JPY 164.35 164.85 171.36
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.0501 0
MYR 0 6104 0
NOK 0 2325 0
NZD 0 15069 0
PHP 0 420 0
SEK 0 2395 0
SGD 18666 18796 19522
THB 0 686.7 0
TWD 0 768 0
XAU 8200000 8200000 8400000
XBJ 7700000 7700000 8100000
Cập nhật: 08/10/2024 03:45