Tái khởi động nền kinh tế như thế nào?

Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?

19:00 | 11/09/2021

850 lượt xem
|
(PetroTimes) - Cuối tháng 8/2021, một loạt các Hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề cùng lúc đệ trình công văn kêu cứu lên Thủ tướng Chính phủ. Trong đó nêu bật những khó khăn có tính sống còn của hàng triệu doanh nghiệp Việt Nam đó là vấn đề lưu thông hàng hóa, an toàn cho lực lượng lao động.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 84/NQ-CP về việc tháo gỡ khó khăn phục hồi sản xuất kinh doanh nhưng một số địa phương vẫn còn lúng túng, chậm triển khai. Điển hình như vừa qua, Hiệp hội các ngành hàng Việt Nam, bao gồm các Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản, Hiệp hội Gỗ, Hiệp hội Cao su, Hiệp hội Rau quả, Hiệp hội Hồ tiêu vừa có công văn, gửi Thủ tướng Chính phủ, về việc cấp giấy đi đường cho doanh nghiệp, nhằm thực hiện nhiệm vụ cấp thiết trong thời gian giãn cách xã hội trên địa bàn TP.HCM.

Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?
Chuyện bất cập trong việc cấp giấy đi đường khiến Thủ tướng Chính phủ cũng phải lên tiếng yêu cầu điều chỉnh.

Cụ thể, các hiệp hội, hội thống nhất và xin đề xuất các cơ quan chức năng cần có hướng dẫn cụ thể và thống nhất về đầu mối liên hệ cấp phát giấy đi đường đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu và tăng cường số lượng cán bộ phụ trách xử lý hồ sơ cho các doanh nghiệp.

Đồng thời, giấy đi đường cần được cấp gửi qua email cho các doanh nghiệp làm cơ sở đi qua các chốt kiểm soát thuận lợi đến trụ sở Sở Công Thương TP.HCM đóng dấu.

Hiệp hội, hội các ngành hàng cũng đề xuất sẽ là đầu mối và chịu trách nhiệm trong việc lập danh sách doanh nghiệp là Hội viên Hiệp hội có nhu cầu xin cấp giấy đi đường, gửi trực tiếp tới Sở Công Thương TP.HCM và các tỉnh nhằm giảm tải cho các cơ quan chức năng, đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của hiệp hội trong công tác phòng chống dịch Covid-19.

Người đứng đầu các doanh nghiệp hội viên chịu trách nhiệm về danh sách đăng ký và cam kết quản lý chặt chẽ danh sách người lao động được cấp giấy đi đường. Các doanh nghiệp không phải là hội viên của hiệp hội sẽ thực hiện thủ tục xin giấy đi đường tại Sở Công Thương và địa phương.

Theo đại diện Hiệp hội các ngành hàng, các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu tập trung nhiều nhà máy của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu như gạo, gỗ, thủy sản, cao su, rau quả, điều, cà phê, hồ tiêu,...

“Trong trường hợp các doanh nghiệp không được phê duyệt cấp Giấy đi đường để làm thủ tục xuất khẩu hàng hóa sẽ gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung khi mà kim ngạch xuất khẩu của vùng chiếm gần 1/2 của cả nước”, đại diện Hiệp hội các ngành hàng nêu.

Về các doanh nghiệp thủy sản, dệt may thì bên cạnh khó khăn về lưu thông hàng hóa, đi lại thực hiện thủ tục giấy tờ, là khó khăn lớn trong bảo đảm an toàn phòng chống dịch cũng như nỗ lực duy trì sản xuất, xuất khẩu (XK), đặc biệt là thiếu lực lượng lao động trực tiếp.

Thực tế tới nay chỉ có khoảng 30% các doanh nghiệp thủy sản tại các tỉnh/thành phía Nam đảm bảo được điều kiện “3 tại chỗ” và số lượng công nhân có thể huy động cũng chỉ 30-60%. Công suất sản xuất trung bình đã giảm chỉ còn 40-50% so với trước đây. Dự tính công suất chung của cả vùng giảm chỉ còn 30-40%.

Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?
Nhiều doanh nghiệp thủy sản, dệt may đang thiếu lao động trầm trọng.

Trong khi đó, nguyên liệu thủy sản huy động cho chế biến - XK cũng chỉ đạt khoảng 40-50% so với nguồn nguyên liệu bên ngoài. Các vật tư, phụ liệu, bao bì... phục vụ chế biến thủy sản cũng bị thu hẹp, giảm công suất nguồn cung đến 50%. Trong khi sản xuất bị sụt giảm, nhiều đơn hàng phải gác lại hoặc bị mất, thì các chi phí cho doanh nghiệp đảm bảo được “3 tại chỗ” lại tăng vọt và đang tạo áp lực lớn.

Sản xuất sụt giảm trong hơn 1 tháng qua chắc chắn sẽ dẫn đến kim ngạch XK tháng 8 giảm mạnh so với những tháng trước và giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, ngành hàng cá tra bị tổn thất mạnh nhất vì hơn nửa sổ nhà máy cá tra bị ngừng hoạt động trong thời gian qua.

Thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, theo thống kê của Hải quan, tính đến cuối tháng 7/2021, XK thủy sản của cả nước đạt gần 5 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tính đến giữa tháng 7, tình hình sản xuất và XK thủy sản vẫn đang trên đà tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, từ nửa cuối tháng 7, với việc áp dụng các chỉ thị giãn cách xã hội, tình hình sản xuất nguyên liệu và chế biến thủy sản chững lại rõ rệt.

Với yêu cầu sản xuất chế biến “3 tại chỗ” ở 19 tỉnh/thành phía Nam, chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp có thể thực hiện theo phương thức này, với công suất sụt giảm từ 30-70% tùy từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xuất hàng trong tháng 7 có thể vẫn sử dụng nguyên liệu và dự trữ tồn kho trước đó nên kết quả qua thống kê chưa phản ánh xu hướng sụt giảm, nhưng so với các tháng trước, mức tăng trưởng đã thấp hơn đáng kể.

100% CBCNV, người lao động tại khu vực TP HCM được tiêm vắc xin phòng Covid-19
TP HCM đã tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho 100% CBCNV, người lao động.

Được biết, đối với doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản việc đứt gãy chuỗi sản xuất do thiếu lao động trong khâu chế biến và thu hoạch là cực kỳ nghiêm trọng. Bất cứ hợp đồng cung cấp thủy sản nào cũng cần phải tuân thủ chính xác về thời gian nếu không sẽ bị phạt hợp đồng cực kỳ nặng, có thể dẫn tới phá sản doanh nghiệp phía Việt Nam. Đặc biệt, doanh nghiệp xuất khẩu không tuân thủ hợp đồng có thể bị đưa vào "sổ đen" của các quốc gia nhập khẩu khó tính như Hoa Kỳ, châu Âu. Đây coi như là dấu chấm hết cho một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.

Bởi vậy, các địa phương cần phải ngay lập tức tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản về chỗ ở cho công nhân (thực hiện 3 tại chỗ), luồng lạch giao thông thuận tiện để chuẩn bị xuất hàng, đặc biệt là tổ chức lực lượng thu hoạch tôm, cá, thủy sản đã đến vụ.

Có thể thấy rằng, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức có tính sống còn trước đại dịch Covid-19. Việc hạn chế đi lại của các địa phương với mục tiêu chống dịch đặt lên hàng đầu là cần thiết nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều điểm chồng chéo, cứng nhắc, liên tục lập các rào cản về thủ tục hành chính khiến doanh nghiệp phải chạy vạy đủ đường. Đã đến lúc phải có lộ trình rõ ràng cho sự vận hành trở lại của cả nền kinh tế, doanh nghiệp cả nước, giải quyết triệt để vướng mắc trong lưu thông hàng hóa, đảm bảo an toàn cho người lao động.

Tùng Dương

Bộ Tài chính bác đề xuất miễn thuế VAT của Hiệp hội Dệt may Bộ Tài chính bác đề xuất miễn thuế VAT của Hiệp hội Dệt may
Bộ Tài chính nói về việc giá thép tăng cao Bộ Tài chính nói về việc giá thép tăng cao
NÓNG: 14 Hiệp hội doanh nghiệp đồng loạt đề xuất miễn phí Công đoàn NÓNG: 14 Hiệp hội doanh nghiệp đồng loạt đề xuất miễn phí Công đoàn
Một loạt hiệp hội ngành hàng Một loạt hiệp hội ngành hàng "xin" Thủ tướng "giấy đi đường"

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Hà Nội - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Đà Nẵng - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Miền Tây - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Tây Nguyên - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Đông Nam Bộ - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Cập nhật: 15/10/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,450 ▲220K 14,750 ▲150K
Trang sức 99.9 14,440 ▲220K 14,740 ▲150K
NL 99.99 14,450 ▲220K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,450 ▲220K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Thái Bình 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Nghệ An 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Hà Nội 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Cập nhật: 15/10/2025 12:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,456 ▲15K 14,762 ▲150K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,456 ▲15K 14,763 ▲150K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,437 ▲14K 1,459 ▲14K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,437 ▲14K 146 ▼1300K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,414 ▲1274K 1,444 ▲1301K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 13,847 ▼123237K 14,297 ▼127287K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,961 ▲1050K 108,461 ▲1050K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,852 ▲89953K 98,352 ▲97378K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,743 ▲854K 88,243 ▲854K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,844 ▲817K 84,344 ▲817K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,871 ▲584K 60,371 ▲584K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Cập nhật: 15/10/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16631 16899 17473
CAD 18235 18511 19122
CHF 32268 32651 33295
CNY 0 3470 3830
EUR 29975 30248 31270
GBP 34362 34753 35683
HKD 0 3257 3458
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14760 15346
SGD 19782 20064 20585
THB 725 788 841
USD (1,2) 26080 0 0
USD (5,10,20) 26121 0 0
USD (50,100) 26149 26184 26369
Cập nhật: 15/10/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,169 26,169 26,369
USD(1-2-5) 25,123 - -
USD(10-20) 25,123 - -
EUR 30,208 30,232 31,355
JPY 170.95 171.26 178.3
GBP 34,748 34,842 35,625
AUD 16,878 16,939 17,366
CAD 18,473 18,532 19,044
CHF 32,614 32,715 33,371
SGD 19,941 20,003 20,611
CNY - 3,645 3,739
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.09 17.82 19.12
THB 773.81 783.37 833.18
NZD 14,772 14,909 15,249
SEK - 2,725 2,803
DKK - 4,041 4,154
NOK - 2,559 2,632
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,848.63 - 6,556.57
TWD 777.22 - 934.47
SAR - 6,930.14 7,248.86
KWD - 83,828 88,663
Cập nhật: 15/10/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16770 16870 17475
CAD 18415 18515 19120
CHF 32500 32530 33417
CNY 0 3661.4 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30163 30193 31216
GBP 34638 34688 35801
HKD 0 3390 0
JPY 170.52 171.02 178.08
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14862 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19931 20061 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14530000 14530000 14730000
SBJ 14000000 14000000 14730000
Cập nhật: 15/10/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,175 26,225 26,369
USD20 26,175 26,225 26,369
USD1 23,859 26,225 26,369
AUD 16,824 16,924 18,045
EUR 30,316 30,316 31,647
CAD 18,366 18,466 19,785
SGD 20,014 20,164 21,190
JPY 171.01 172.51 177.15
GBP 34,731 34,881 35,666
XAU 14,408,000 0 14,612,000
CNY 0 3,540 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 12:00