Tái khởi động nền kinh tế như thế nào?

Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?

19:00 | 11/09/2021

848 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Cuối tháng 8/2021, một loạt các Hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề cùng lúc đệ trình công văn kêu cứu lên Thủ tướng Chính phủ. Trong đó nêu bật những khó khăn có tính sống còn của hàng triệu doanh nghiệp Việt Nam đó là vấn đề lưu thông hàng hóa, an toàn cho lực lượng lao động.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 84/NQ-CP về việc tháo gỡ khó khăn phục hồi sản xuất kinh doanh nhưng một số địa phương vẫn còn lúng túng, chậm triển khai. Điển hình như vừa qua, Hiệp hội các ngành hàng Việt Nam, bao gồm các Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản, Hiệp hội Gỗ, Hiệp hội Cao su, Hiệp hội Rau quả, Hiệp hội Hồ tiêu vừa có công văn, gửi Thủ tướng Chính phủ, về việc cấp giấy đi đường cho doanh nghiệp, nhằm thực hiện nhiệm vụ cấp thiết trong thời gian giãn cách xã hội trên địa bàn TP.HCM.

Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?
Chuyện bất cập trong việc cấp giấy đi đường khiến Thủ tướng Chính phủ cũng phải lên tiếng yêu cầu điều chỉnh.

Cụ thể, các hiệp hội, hội thống nhất và xin đề xuất các cơ quan chức năng cần có hướng dẫn cụ thể và thống nhất về đầu mối liên hệ cấp phát giấy đi đường đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu và tăng cường số lượng cán bộ phụ trách xử lý hồ sơ cho các doanh nghiệp.

Đồng thời, giấy đi đường cần được cấp gửi qua email cho các doanh nghiệp làm cơ sở đi qua các chốt kiểm soát thuận lợi đến trụ sở Sở Công Thương TP.HCM đóng dấu.

Hiệp hội, hội các ngành hàng cũng đề xuất sẽ là đầu mối và chịu trách nhiệm trong việc lập danh sách doanh nghiệp là Hội viên Hiệp hội có nhu cầu xin cấp giấy đi đường, gửi trực tiếp tới Sở Công Thương TP.HCM và các tỉnh nhằm giảm tải cho các cơ quan chức năng, đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của hiệp hội trong công tác phòng chống dịch Covid-19.

Người đứng đầu các doanh nghiệp hội viên chịu trách nhiệm về danh sách đăng ký và cam kết quản lý chặt chẽ danh sách người lao động được cấp giấy đi đường. Các doanh nghiệp không phải là hội viên của hiệp hội sẽ thực hiện thủ tục xin giấy đi đường tại Sở Công Thương và địa phương.

Theo đại diện Hiệp hội các ngành hàng, các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu tập trung nhiều nhà máy của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu như gạo, gỗ, thủy sản, cao su, rau quả, điều, cà phê, hồ tiêu,...

“Trong trường hợp các doanh nghiệp không được phê duyệt cấp Giấy đi đường để làm thủ tục xuất khẩu hàng hóa sẽ gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung khi mà kim ngạch xuất khẩu của vùng chiếm gần 1/2 của cả nước”, đại diện Hiệp hội các ngành hàng nêu.

Về các doanh nghiệp thủy sản, dệt may thì bên cạnh khó khăn về lưu thông hàng hóa, đi lại thực hiện thủ tục giấy tờ, là khó khăn lớn trong bảo đảm an toàn phòng chống dịch cũng như nỗ lực duy trì sản xuất, xuất khẩu (XK), đặc biệt là thiếu lực lượng lao động trực tiếp.

Thực tế tới nay chỉ có khoảng 30% các doanh nghiệp thủy sản tại các tỉnh/thành phía Nam đảm bảo được điều kiện “3 tại chỗ” và số lượng công nhân có thể huy động cũng chỉ 30-60%. Công suất sản xuất trung bình đã giảm chỉ còn 40-50% so với trước đây. Dự tính công suất chung của cả vùng giảm chỉ còn 30-40%.

Bài 1: Vì sao các hiệp hội ngành nghề phải kêu cứu?
Nhiều doanh nghiệp thủy sản, dệt may đang thiếu lao động trầm trọng.

Trong khi đó, nguyên liệu thủy sản huy động cho chế biến - XK cũng chỉ đạt khoảng 40-50% so với nguồn nguyên liệu bên ngoài. Các vật tư, phụ liệu, bao bì... phục vụ chế biến thủy sản cũng bị thu hẹp, giảm công suất nguồn cung đến 50%. Trong khi sản xuất bị sụt giảm, nhiều đơn hàng phải gác lại hoặc bị mất, thì các chi phí cho doanh nghiệp đảm bảo được “3 tại chỗ” lại tăng vọt và đang tạo áp lực lớn.

Sản xuất sụt giảm trong hơn 1 tháng qua chắc chắn sẽ dẫn đến kim ngạch XK tháng 8 giảm mạnh so với những tháng trước và giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, ngành hàng cá tra bị tổn thất mạnh nhất vì hơn nửa sổ nhà máy cá tra bị ngừng hoạt động trong thời gian qua.

Thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, theo thống kê của Hải quan, tính đến cuối tháng 7/2021, XK thủy sản của cả nước đạt gần 5 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tính đến giữa tháng 7, tình hình sản xuất và XK thủy sản vẫn đang trên đà tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, từ nửa cuối tháng 7, với việc áp dụng các chỉ thị giãn cách xã hội, tình hình sản xuất nguyên liệu và chế biến thủy sản chững lại rõ rệt.

Với yêu cầu sản xuất chế biến “3 tại chỗ” ở 19 tỉnh/thành phía Nam, chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp có thể thực hiện theo phương thức này, với công suất sụt giảm từ 30-70% tùy từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xuất hàng trong tháng 7 có thể vẫn sử dụng nguyên liệu và dự trữ tồn kho trước đó nên kết quả qua thống kê chưa phản ánh xu hướng sụt giảm, nhưng so với các tháng trước, mức tăng trưởng đã thấp hơn đáng kể.

100% CBCNV, người lao động tại khu vực TP HCM được tiêm vắc xin phòng Covid-19
TP HCM đã tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho 100% CBCNV, người lao động.

Được biết, đối với doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản việc đứt gãy chuỗi sản xuất do thiếu lao động trong khâu chế biến và thu hoạch là cực kỳ nghiêm trọng. Bất cứ hợp đồng cung cấp thủy sản nào cũng cần phải tuân thủ chính xác về thời gian nếu không sẽ bị phạt hợp đồng cực kỳ nặng, có thể dẫn tới phá sản doanh nghiệp phía Việt Nam. Đặc biệt, doanh nghiệp xuất khẩu không tuân thủ hợp đồng có thể bị đưa vào "sổ đen" của các quốc gia nhập khẩu khó tính như Hoa Kỳ, châu Âu. Đây coi như là dấu chấm hết cho một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.

Bởi vậy, các địa phương cần phải ngay lập tức tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản về chỗ ở cho công nhân (thực hiện 3 tại chỗ), luồng lạch giao thông thuận tiện để chuẩn bị xuất hàng, đặc biệt là tổ chức lực lượng thu hoạch tôm, cá, thủy sản đã đến vụ.

Có thể thấy rằng, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức có tính sống còn trước đại dịch Covid-19. Việc hạn chế đi lại của các địa phương với mục tiêu chống dịch đặt lên hàng đầu là cần thiết nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều điểm chồng chéo, cứng nhắc, liên tục lập các rào cản về thủ tục hành chính khiến doanh nghiệp phải chạy vạy đủ đường. Đã đến lúc phải có lộ trình rõ ràng cho sự vận hành trở lại của cả nền kinh tế, doanh nghiệp cả nước, giải quyết triệt để vướng mắc trong lưu thông hàng hóa, đảm bảo an toàn cho người lao động.

Tùng Dương

Bộ Tài chính bác đề xuất miễn thuế VAT của Hiệp hội Dệt may Bộ Tài chính bác đề xuất miễn thuế VAT của Hiệp hội Dệt may
Bộ Tài chính nói về việc giá thép tăng cao Bộ Tài chính nói về việc giá thép tăng cao
NÓNG: 14 Hiệp hội doanh nghiệp đồng loạt đề xuất miễn phí Công đoàn NÓNG: 14 Hiệp hội doanh nghiệp đồng loạt đề xuất miễn phí Công đoàn
Một loạt hiệp hội ngành hàng Một loạt hiệp hội ngành hàng "xin" Thủ tướng "giấy đi đường"

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 11,090
Cập nhật: 29/06/2025 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 116.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 113.400 116.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 113.400 116.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 113.400 116.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 115.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 115.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 114.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 114.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 86.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 67.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 48.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 105.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 70.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 75.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 78.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 43.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 38.170
Cập nhật: 29/06/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 11,590
Trang sức 99.9 11,130 11,580
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 11,650
Miếng SJC Thái Bình 11,720 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,720 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,720 11,920
Cập nhật: 29/06/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 29/06/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 29/06/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 29/06/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 29/06/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 29/06/2025 02:00