“Tăng thu thuế môi trường sẽ được lòng dân hơn”

10:27 | 23/09/2016

250 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
“Thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu hiện ở mức 3.000 đồng/lít, nếu nâng lên hết khung hoặc vượt khung, thì giá trị thu được sẽ gấp khoảng 10-20 lần so với số trực tiếp thu từ sử dụng đất phi nông nghiệp hiện nay”, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho biết và khẳng định sẽ xúc tiến để mở rộng đối tượng thu thuế bảo vệ môi trường vào năm tới.

Phát biểu tại phiên thảo luận bàn tròn về kế hoạch cải cách thuế của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 diễn ra tại trụ sở Bộ Tài chính chiều qua (22/9), Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn khẳng định với các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), sẽ tiếp tục thúc đẩy thu thuế bảo vệ môi trường và trong năm tới sẽ xúc tiến để mở rộng đối tượng thu này.

Ông Tuấn cho rằng, việc chú trọng tăng thu thuế bảo vệ môi trường sẽ có lợi ích cả về kinh tế lẫn chính trị, so với việc tăng thu các loại thuế khác như thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

“Thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu hiện ở mức 3.000 đồng/lít, nếu nâng lên hết khung hoặc vượt khung, thì giá trị thu được sẽ gấp khoảng 10-20 lần so với số trực tiếp thu từ sử dụng đất phi nông nghiệp hiện nay”, lãnh đạo Bộ Tài chính dẫn chứng.

tin nhap 20160923102515
Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn khẳng định quan điểm của Bộ Tài chính là sẽ tăng thu thuế bảo vệ môi trường.

Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn cũng nói thêm rằng, đối tượng thu và phương thức thu cũng “được lòng dân hơn”. Theo đó, Bộ Tài chính sẽ mở rộng phạm vi thu thuế với những ngành sản xuất, những dự án thâm dụng tài nguyên khoáng sản, khai thác quặng sắt, các dự án luyện thép vào Việt Nam...

Cùng với đó, chính sách thuế cũng sẽ hướng đến khuyến khích các ngành sản xuất và sử dụng năng lượng sạch. Nếu tăng nguồn thu từ các ngành nghề gây ô nhiễm môi trường thì sẽ có thể có nguồn để hỗ trợ cho năng lượng sạch (năng lượng mặt trời, năng lượng gió…) - đây là ưu tiên chính sách của Bộ Tài chính trong thời gian tới, Thứ trưởng Tuấn cho hay.

Trong một báo cáo trình Quốc hội khóa XIII, Chính phủ cho biết, năm 2016, để đảm bảo cân đối ngân sách Nhà nước (NSNN), một trong những giải pháp đặt ra là tập trung thực hiện tốt công tác thu NSNN, chủ động xử lý tác động do biến động giá dầu thô, quyết tâm thu đạt và vượt dự toán Quốc hội quyết định. Theo đó, sẽ nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền tiếp tục điều chỉnh tăng thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng dầu.

Tuy nhiên, sau đó, trả lời báo chí tại phiên họp báo hồi cuối tháng 3, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai cho biết, Bộ Tài chính vẫn chưa có kế hoạch trình Chính phủ về điều chỉnh thuế môi trường với mặt hàng xăng dầu. Việc điều chỉnh từng sắc thuế cần có đánh giá thực tiễn, căn cứ vào các quy định luật pháp, Nghị quyết của Chính phủ và phù hợp với chính sách động viên nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu hiện nay đang được quy định tại biểu thuế của luật Thuế bảo vệ môi trường do Quốc hội ban hành với khung quy định đối với xăng (trừ ethanol) từ 1.000 - 4.000 đồng/lít, dầu diezel từ 500 - 2.000 đồng/lít, dầu hỏa và mazut từ 300 - 2.000 đồng/lít.

Hồi tháng 5/2015, thuế môi trường đối với mặt hàng xăng dầu đã tăng mạnh 300%, từ 1.000 đồng lên 3.000 đồng/lít với mặt hàng xăng, nhiên liệu bay. Mặt hàng dầu diezel tăng từ 500 đồng/lít lên 1.500 đồng/lít; mặt hàng dầu mazut tăng từ 300 đồng/lít lên 900 đồng/lít; mặt hàng dầu hoả giữ nguyên mức thuế là 300 đồng/lít.

Như vậy, nếu tiếp tục điều chỉnh tăng thì thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng có thể sẽ tăng kịch trần lên 4.000 đồng/lít.

Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho biết, để khuyến khích, tạo điều kiện, hỗ trợ cho nông nghiệp nông thôn, trong kỳ Quốc hội vào tháng 10 tới, Chính phủ sẽ trình bỏ khoản thu thuế đất nông nghiệp, hiện đang ở mức 4 triệu USD, tức khoảng 80 tỷ đồng.

Tại cuộc thảo luận, chuyên gia WB cũng góp ý với Việt Nam có thể tăng mạnh khoản thuế sử dụng đất phi nông nghiệp lên gấp đôi hoặc gấp 4 lần hiện nay do dư địa tăng rất lớn. Thuế suất thuế sử đụng đất phi nông nghiệp ở Việt Nam hiện rất thấp 0,03%, thấp hơn so với Indonesia 10 lần và so với Philippines 40 lần.

Bích Diệp

Dân trí

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 69,450
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 69,350
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 29/03/2024 08:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 69.800
TPHCM - SJC 79.100 81.100
Hà Nội - PNJ 68.500 69.800
Hà Nội - SJC 79.100 81.100
Đà Nẵng - PNJ 68.500 69.800
Đà Nẵng - SJC 79.100 81.100
Miền Tây - PNJ 68.500 69.800
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 69.800
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 69.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 52.050
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 40.630
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 28.940
Cập nhật: 29/03/2024 08:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 6,990
Trang sức 99.9 6,825 6,980
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 7,020
NL 99.99 6,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830
Miếng SJC Thái Bình 7,930 8,115
Miếng SJC Nghệ An 7,930 8,115
Miếng SJC Hà Nội 7,930 8,115
Cập nhật: 29/03/2024 08:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 69,750
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 69,850
Nữ Trang 99.99% 68,400 69,250
Nữ Trang 99% 67,064 68,564
Nữ Trang 68% 45,245 47,245
Nữ Trang 41.7% 27,030 29,030
Cập nhật: 29/03/2024 08:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 29/03/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,910 16,010 16,460
CAD 18,073 18,173 18,723
CHF 27,048 27,153 27,953
CNY - 3,392 3,502
DKK - 3,537 3,667
EUR #26,290 26,325 27,585
GBP 30,923 30,973 31,933
HKD 3,094 3,109 3,244
JPY 160.41 160.41 168.36
KRW 16.6 17.4 20.2
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,244 2,324
NZD 14,566 14,616 15,133
SEK - 2,268 2,378
SGD 17,923 18,023 18,623
THB 627.15 671.49 695.15
USD #24,560 24,640 24,980
Cập nhật: 29/03/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 29/03/2024 08:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 08:45