Lời giải cho bài toán lao động nông nghiệp

13:48 | 23/02/2018

2,983 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tại Hội nghị tổng kết năm 2017 và triển khai kế hoạch năm 2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ rõ: “Nông nghiệp chỉ chiếm 16% trong cơ cấu GDP, nhưng lao động chiếm trên 42%. Đặc biệt, người dân ở nông thôn chiếm đến 70% dân số. Cơ cấu lao động là vấn đề lớn hiện nay”. Phóng viên Báo Năng lượng Mới đã có cuộc trò chuyện với GS.TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, nhà khoa học nông nghiệp nổi tiếng về một số vấn đề đáng quan tâm của lực lượng lao động nông nghiệp Việt Nam hiện nay.  

Người trẻ không mặn mà với nông nghiệp

PV: Ông có nhận xét gì về lực lượng lao động nông nghiệp hiện nay?

loi giai cho bai toan lao dong nong nghiep
GS.TS Võ Tòng Xuân

GS.TS Võ Tòng Xuân: Ở nông thôn Việt Nam nói chung và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng, lực lượng tham gia sản xuất nông nghiệp phần lớn là những “lão nông”, sản xuất cá thể và dựa vào kinh nghiệm lâu đời là chính, việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến chưa nhiều. Lực lượng trẻ có trình độ tham gia vào lực lượng lao động nông nghiệp rất ít. Nông thôn nhìn quanh chỉ thấy toàn người già và trẻ nhỏ.

Trường dạy nghề ở các huyện được trang bị quá sơ sài. Thanh niên thì muốn học cao hơn, không mấy ai chọn học nghề, nhất là nghề nông, cứ đổ xô vào những ngành “hot” như tài chính, ngân hàng… để rồi thất nghiệp quá nhiều bởi thực tiễn nhu cầu sử dụng những chuyên môn đó không nhiều.

Đa số các bạn trẻ hiện nay không mặn mà với nông nghiệp. Đó là một vấn đề lớn của nền nông nghiệp nước ta hiện nay.

PV: Và đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng năng suất lao động nông nghiệp hiện nay rất thấp, nghịch lý là nông nghiệp chỉ chiếm 16% trong GDP, nhưng lao động chiếm hơn 42%, thưa ông?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Dễ thấy rằng cường độ lao động nông nghiệp ở Việt Nam so với quốc tế còn thua xa, năng suất lao động nông nghiệp còn rất thấp. Ngoài lý do trên, ở nông thôn Việt Nam, cụ thể là ĐBSCL còn tồn tại một thực tế thế này. Với nghề trồng lúa, trung bình 1 lao động chỉ mất khoảng dưới 100 ngày/năm. Trong khi đó, hiện tại, hầu như bất cứ công việc gì nông dân cũng thuê dịch vụ chứ không tự tay làm như ngày xưa nữa. Chẳng hạn như hợp đồng thuê máy cày, máy xới, máy sạ hàng, hợp đồng cung cấp phân bón, bơm nước vào ruộng, rồi đến hợp đồng thu hoạch.

loi giai cho bai toan lao dong nong nghiep
Năng suất lao động ngành nông nghiệp rất thấp (ảnh minh họa)
Ở nông thôn Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng, lực lượng tham gia sản xuất nông nghiệp phần lớn là những “lão nông”, sản xuất cá thể và dựa vào kinh nghiệm lâu đời là chính, việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến chưa nhiều.

Máy móc làm nhanh, thời gian của nông dân còn quá nhiều nhưng không có cơ hội để làm việc gì khác kiếm thêm thu nhập vì đa số nông dân không được đào tạo nghề. Từ đó dẫn đến năng suất lao động của lực lượng lao động nông nghiệp ở nông thôn thấp.

PV: Theo ông, tại sao bao năm qua, nông nghiệp chúng ta vẫn cứ sản xuất theo kiểu cá thể nhỏ lẻ như thế?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Có một thực tế là hiện nay có rất ít hợp tác xã (HTX) hấp dẫn để thu hút nông dân tham gia.

Nhìn sang bên Nhật Bản, nếu nông dân không tham gia HTX thì sẽ cảm thấy bị thua thiệt. Nhà nước Nhật Bản có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho HTX nông nghiệp rất tốt, có thể là vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp, giúp đỡ kinh phí để làm những dự án… Ví dụ, nếu nông dân muốn trồng hoa màu trong mùa đông thì từ trung ương đến địa phương sẽ hỗ trợ kinh phí để mua sắm vật tư làm nhà kính. Nông dân thấy rằng, nếu vào HTX thì họ cũng được canh tác trong nhà kính này mà không phải bỏ ra nhiều tiền, năng suất thu hoạch lại cao hơn, tại sao không tham gia?

Chúng ta chưa có chính sách như vậy, thậm chí là ngược lại. Nông dân đang làm ăn cá thể thì được tự do, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, trong khi đó vào HTX thì không còn tự do, lại phải đóng tiền vào HTX, phải đóng thuế. Tôi đã nghe rất nhiều nông dân than rằng, họ đang làm ở ngoài tự do, vào HTX thì bắt đóng thuế và đủ loại tiền nữa nên không muốn vào.

Như vậy, nông nghiệp nước ta chủ yếu sản xuất theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún không phải lỗi hoàn toàn do tập quán của nông dân mà Nhà nước chưa có những chính sách hấp dẫn để khuyến khích nông dân tham gia các HTX. Cũng vậy, lực lượng sản xuất nông nghiệp thiếu vắng những thanh niên có trình độ khoa học kỹ thuật là bởi vì chưa có chính sách khuyến khích để thanh niên theo đuổi lĩnh vực nông nghiệp.

loi giai cho bai toan lao dong nong nghiep
Thanh niên 9X Võ Văn Tiếng nổi tiếng với sản phẩm lúa gạo sạch Tâm Việt ở Đồng Tháp

PV: Công bằng mà nói, thời gian gần đây, một số bạn trẻ đã mạnh dạn khởi nghiệp bằng nông nghiệp công nghệ cao và đã có những thành công. Nếu Nhà nước có chính sách thu hút hấp dẫn thì nông nghiệp sẽ nhanh chóng đổi khác với lực lượng lao động trẻ?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Cũng rất khó cho thanh niên vì như tôi đã nói, hiện tại, ngành nông nghiệp chưa có những chính sách khuyến khích để người trẻ tự tin làm giàu trên mảnh đất của mình. Thanh niên ở quê, hoặc là chọn ly hương đến các thành phố lớn để tìm cơ hội, hoặc nếu ở quê, họ cũng chẳng mấy mặn mà với nghề nông. Việc làm thì ít, thời gian thì nhiều vô kể, mà ông bà ta đã nói “Nhàn cư vi bất thiện” nên thanh niên ở quê bây giờ cũng có nhiều tệ nạn: nhậu nhẹt, cờ bạc…

“4 nhà” gồm nhà nông, nhà chính sách, nhà chế biến sản phẩm và cuối cùng là nhà tiêu thụ sản phẩm. “4 nhà” liên kết lại với nhau một cách chặt chẽ, bài bản sẽ tạo thành một chuỗi liên kết vững chắc, khép kín.

Sâu xa nữa là đi học cũng chán, thầy cô dạy không hấp dẫn, giáo dục quá lý thuyết, nặng thành tích từ mầm non cho đến hết trung học phổ thông. Ngày nay học để thi chứ không phải học để biết, để áp dụng vào thực tế làm việc. Học xong lớp 12, các em vẫn còn lơ ngơ, phải học đại học, học xong đại học vẫn chưa xong, ra ngoài phải đào tạo lại mới làm được việc… Nói chung, ngành giáo dục phải đổi mới quyết liệt chương trình học để từ đó có thể hun đúc tinh thần ham học, sáng tạo và áp dụng thành công kiến thức đã học. Có như vậy mới mong có thế hệ thanh niên giỏi được.

Giải bài toán lực lượng lao động nông nghiệp

PV: Chính phủ kêu gọi phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, công nghệ cao. Theo ông, cơ hội áp dụng mô hình đó đối với ĐBSCL thế nào?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Nông nghiệp nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng rất cần phát triển theo hướng đó, đó là hướng đi lâu dài, bền vững. Song, hiện nay chúng ta chưa thật sự sẵn sàng, từ lực lượng lao động đến kinh phí. Chúng ta chưa có đội ngũ hùng hậu lao động nông nghiệp có trình độ kỹ thuật cao, vốn đầu tư khá lớn và vượt quá khả năng của nhiều người, dẫu họ rất mong muốn… Đó là một bài toán lớn của ngành nông nghiệp nước ta.

PV: Để giải bài toán này, trước mắt chúng ta cần làm gì?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Tôi có lần đã đề cập đến giải pháp hợp tác “4 nhà”, đó là giải pháp hữu hiệu trước mắt để thúc đẩy phát triển nông nghiệp Việt Nam. “4 nhà” gồm nhà nông, nhà chính sách, nhà chế biến sản phẩm và cuối cùng là nhà tiêu thụ sản phẩm. “4 nhà” này liên kết lại với nhau một cách chặt chẽ, bài bản sẽ tạo thành một chuỗi liên kết vững chắc, khép kín. Khi nhà tiêu thụ sản phẩm có lãi thì sẽ chia lại cho các “nhà” còn lại trong chuỗi; khi đó người nông dân sản xuất mà không phải lo đầu ra, họ làm theo đặt hàng của doanh nghiệp chế biến trong chuỗi và doanh nghiệp này gắn với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.

Giải pháp này tôi đã đề xuất cách đây khá lâu rồi, một số nơi đã thực hiện và đã cho thấy hiệu quả. Vấn đề là cần mở rộng quy mô ra hơn nữa.

loi giai cho bai toan lao dong nong nghiep
Cần áp dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác nông nghiệp

PV: Cuối cùng, làm thế nào để ngành nông nghiệp có thể thu hút được người trẻ dấn thân vào, từ đó tạo ra một lực lượng lao động mới, đáp ứng yêu cầu của nông nghiệp hiện đại, đưa ngành nông nghiệp phát triển hơn?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Ngoài việc Nhà nước cần có những chính sách để khuyến khích người trẻ khởi nghiệp bằng nông nghiệp thì bản thân họ phải hiểu, đam mê, bởi có như thế họ mới dấn thân và bỏ vốn ra làm được.

Thứ hai, muốn làm gì, muốn người khác đầu tư cho bạn làm thì trước tiên bạn phải chứng minh mình có đủ thực lực, đủ tài năng và kinh nghiệm. Các nhà đầu tư không bao giờ nhắm mắt bỏ tiền vào một thùng không đáy, cho người không đủ năng lực. Chính vì thế, các bạn cần phải học thật giỏi, phải trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm vững chắc để bắt đầu khởi nghiệp.

Có thể nói, nông nghiệp nước ta có cất cánh được hay không là phần lớn nhờ vào lực lượng lao động tiến bộ sau này.

PV: Trân trọng cảm ơn giáo sư!

TS Võ Trí Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương:

Liên kết chuỗi trong nông nghiệp Việt Nam có hai vấn đề: Một là, không hợp tác mà tìm cách “chơi nhau”. Hai là, sự đàng hoàng trong hợp đồng, thỏa thuận kinh tế giữa doanh nghiệp và nông dân thường bị xóa bỏ.

Do đó, bài toán được đặt ra là lợi ích của người nông dân trong chuỗi giá trị thế nào? Nông nghiệp từng vùng cần có một tổ chức và tổ chức này phải bị chi phối bởi lợi ích của các bên tham gia gồm nông dân và người kinh doanh. Bên cạnh đó, nông nghiệp Việt Nam còn có một loạt hạn chế, yếu kém do phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa trên quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ lẻ, manh mún; doanh nghiệp, HTX chậm phát triển.

Năng suất lao động thấp do nông nghiệp

Vừa qua, theo công bố của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động (NSLĐ) toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2017 ước tính 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 4.159USD/lao động).

NSLĐ của Việt Nam thời gian qua tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, nhưng NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Cụ thể, tính theo sức mua tương đương năm 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894USD, chỉ bằng 7,0% Singapore; 17,6% Malaysia; 36,5% Thái Lan; 42,3% Indonesia; 56,7% Philippines và bằng 87,4% Lào. Đáng chú ý là chênh lệch về NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng.

Nguyên nhân khiến NSLĐ của nước ta thấp là vì NSLĐ của ngành thấp. Cụ thể, nông nghiệp chỉ chiếm 16% trong cơ cấu GDP nhưng lao động chiếm trên 42% và đặc biệt là người dân ở nông thôn còn chiếm đến 70% dân số.

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, điều cốt lõi của vấn đề là lao động nông nghiệp của ta quá lớn, chuỗi giá trị gia tăng ngành hàng nông nghiệp còn thấp cho nên dù năng suất sinh học nhiều loại cây trồng đã tăng rất cao thì NSLĐ nông nghiệp vẫn rất thấp. Dẫn chứng cụ thể: Chỉ với khoảng 200.000 lao động, nhưng năm 2017, SamSung Việt Nam đã xuất khẩu ước 55 tỉ USD trong khi hàng chục triệu lao động nông nghiệp Việt mới tạo ra giá trị xuất khẩu trên 36 tỉ USD.

Lê Trúc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 119,000 ▲500K 121,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,380 ▲150K 11,560 ▲100K
Nguyên liệu 999 - HN 11,370 ▲150K 11,550 ▲100K
Cập nhật: 26/04/2025 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.500 117.500
TPHCM - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 114.500 117.500
Hà Nội - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 114.500 117.500
Đà Nẵng - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 114.500 117.500
Miền Tây - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 119.000 ▲500K 121.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 114.380 116.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.660 116.160
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.430 115.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.400 87.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 61.100 68.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.320 48.820
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.770 107.270
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 64.020 71.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.700 76.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.210 79.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.530 44.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.260 38.760
Cập nhật: 26/04/2025 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,370 ▲100K 11,890 ▲100K
Trang sức 99.9 11,360 ▲100K 11,880 ▲100K
NL 99.99 11,370 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,370 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,600 ▲100K 11,900 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,600 ▲100K 11,900 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,600 ▲100K 11,900 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 11,900 ▲50K 12,100 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2025 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16106 16373 16968
CAD 18241 18517 19146
CHF 30784 31161 31812
CNY 0 3358 3600
EUR 28936 29205 30250
GBP 33839 34228 35179
HKD 0 3223 3427
JPY 174 178 184
KRW 0 0 19
NZD 0 15194 15796
SGD 19238 19518 20058
THB 691 754 808
USD (1,2) 25754 0 0
USD (5,10,20) 25793 0 0
USD (50,100) 25821 25855 26210
Cập nhật: 26/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,840 25,840 26,200
USD(1-2-5) 24,806 - -
USD(10-20) 24,806 - -
GBP 34,194 34,286 35,198
HKD 3,294 3,304 3,405
CHF 30,966 31,062 31,915
JPY 177.39 177.71 185.69
THB 739.71 748.85 801.18
AUD 16,404 16,463 16,916
CAD 18,522 18,582 19,085
SGD 19,445 19,505 20,126
SEK - 2,636 2,739
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,894 4,029
NOK - 2,447 2,540
CNY - 3,532 3,629
RUB - - -
NZD 15,172 15,313 15,763
KRW 16.79 17.51 18.82
EUR 29,115 29,138 30,380
TWD 721.86 - 873.86
MYR 5,558.71 - 6,274.65
SAR - 6,819.9 7,178.24
KWD - 82,586 87,810
XAU - - -
Cập nhật: 26/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,850 25,855 26,195
EUR 28,989 29,105 30,216
GBP 34,032 34,169 35,142
HKD 3,289 3,302 3,409
CHF 30,868 30,992 31,889
JPY 176.78 177.49 184.83
AUD 16,316 16,382 16,911
SGD 19,447 19,525 20,054
THB 755 758 792
CAD 18,451 18,525 19,042
NZD 15,261 25,771
KRW 17.30 19.06
Cập nhật: 26/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25800 25800 26200
AUD 16285 16385 16960
CAD 18425 18525 19082
CHF 31029 31059 31933
CNY 0 3534.8 0
CZK 0 1140 0
DKK 0 3965 0
EUR 29119 29219 30094
GBP 34143 34193 35301
HKD 0 3358 0
JPY 178.05 178.55 185.11
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6161 0
NOK 0 2507 0
NZD 0 15305 0
PHP 0 434 0
SEK 0 2711 0
SGD 19397 19527 20262
THB 0 720.3 0
TWD 0 796 0
XAU 11900000 11900000 12100000
XBJ 11400000 11400000 12100000
Cập nhật: 26/04/2025 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,211
USD20 25,850 25,900 26,211
USD1 25,850 25,900 26,211
AUD 16,335 16,485 17,569
EUR 29,269 29,419 30,608
CAD 18,375 18,475 19,803
SGD 19,477 19,627 20,114
JPY 178.05 179.55 184.32
GBP 34,243 34,393 35,191
XAU 11,848,000 0 12,052,000
CNY 0 3,420 0
THB 0 755 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/04/2025 17:45