Xuất khẩu cà phê Việt Nam sẽ bứt tốc trong năm 2022?

21:26 | 24/10/2021

238 lượt xem
|
(PetroTimes) - Theo đánh giá của Fitch Solutions, những gián đoạn, đứt gãy tạm thời về xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ chỉ là ngắn hạn. Tình trạng này sẽ được giải quyết trong những tháng cuối năm, dự báo xuất khẩu cà phê của Việt Nam có sự tăng trưởng tích cực.
Xuất khẩu cà phê Việt Nam sẽ bứt tốc trong năm 2022?
Giá cà phê trên thị trường toàn cầu chịu sự tác động đáng kể từ dịch Covid-19 ở Việt Nam

Hiện nay, giá cà phê trên toàn cầu đang chịu sức ép tăng giá ở mọi phân khúc, từ cà phê nguyên liệu, cà phê rang xay, cà phê viên nén, cho đến ly cà phê trong quán. Brazil mất mùa cà phê, Colombia biến động chính trị, Việt Nam và Indonesia đối phó dịch bệnh... tin tức từ tất cả các cường quốc sản xuất cà phê đều không thuận, trong thời điểm nhu cầu tiêu thụ cà phê trên thế giới vẫn tăng liên tục.

Brazil được biết là quốc gia sản xuất cà phê đứng đầu thế giới, năm nay mất tới 1/3 sản lượng do thiên tai, và đó là lý do thứ nhất giải thích vì sao giá cà phê lại tăng cao đến vậy. Thiếu hụt nguồn nguyên liệu lại diễn ra đúng vào lúc nhu cầu tiêu thụ cà phê tăng rất mạnh, ước tính cao hơn năm 2020 tới gần 10%. Tờ Svenska Dagbladet ra tại Thụy Điển dẫn lời giám đốc một công ty môi giới cà phê tại Mỹ, ông này nói rằng: "Trong suốt sự nghiệp của mình chưa khi nào thấy kịch tính như lúc này". Hạn hán ở Brazil vẫn tiếp tục và sẽ còn tác động đến cả vụ sau.

Lý do thứ hai là từ Việt Nam và Indonesia, hai quốc gia sản xuất cà phê đứng thứ 2 và thứ 4 thế giới. Tờ Thời báo Ireland viết rằng: "Xuất khẩu của các nhà sản xuất lớn khác như Việt Nam đã bị chậm lại do tắc nghẽn vận chuyển".

Đại dịch lan rộng tại châu Á buộc các nước trồng cà phê phải hạn chế di chuyển, phong tỏa, cách ly, đang tạo ra vô vàn vấn đề trong thu hái, chế biến, vận chuyển, bốc xếp… cộng thêm vấn đề thiếu container rỗng mãi vẫn chưa được giải quyết. Nông dân Việt Nam và Indonesia vẫn bị hạn chế đi lại trong lúc sắp phải thu hoạch quả cà phê tươi, nguy cơ ảnh hưởng cả tới dây chuyền chế biến từ nay cho đến mùa hè năm sau.

Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới nhưng do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều địa phương phải giãn cách xã hội, ảnh hưởng lớn tới chuỗi cung ứng xuất khẩu cà phê. Hiện nay, các khó khăn trong thu mua, lưu thông và tiêu thụ cà phê đang dần được tháo gỡ, các doanh nghiệp đang tập trung phục hồi sản xuất, để tận dụng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu cà phê.

Trong khi nguồn cung cà phê còn giảm tiếp vì ảnh hưởng dịch bệnh, nhu cầu với mặt hàng này sẽ tăng trong những tháng tới. Đây sẽ là viễn cảnh ít nhất tại châu Âu và Mỹ khi các lệnh hạn chế phòng dịch Covid-19 nới lỏng, nhiều cửa hàng, chuỗi bán cà phê mở lại.

Trong báo cáo đánh giá thị trường mới nhất, Fitch Solutions nhấn mạnh tác động đáng kể từ dịch Covid-19 ở Việt Nam tới thị trường cà phê thế giới.

Cụ thể, tổ chức này cho rằng các biện pháp phong tỏa, giãn cách phòng dịch bệnh tại Việt Nam sẽ làm gián đoạn chuỗi cung ứng cà phê toàn cầu. Theo đó, giá cà phê có thể duy trì ở mức "tương đối cao" trong cả năm sau.

Bất chấp thực tế còn nhiều khó khăn trước mắt, các chuyên gia phân tích thị trường vẫn tin tưởng những biện pháp hạn chế phòng dịch bệnh sẽ sớm được gỡ bỏ từng bước. Do đó, theo đánh giá của Công ty nghiên cứu thị trường Fitch Solutions, những gián đoạn, đứt gãy tạm thời về xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ chỉ là ngắn hạn.

Cũng tương tự, hoạt động sản xuất cà phê của Brazil cũng sẽ bật trở lại "khá nhanh", miễn là các điều kiện thời tiết cực đoan không tái diễn. Điều này có nghĩa chuỗi cung ứng cà phê toàn cầu có thể bắt đầu lấy lại đà phát triển trong giai đoạn 2022/2023. Mức giá trung bình theo năm của cà phê arabica sẽ giảm khoảng 1,20 USD/pound trong năm 2023, theo Fitch Solutions.

"Chính sách hỗ trợ đang được triển khai của các nước sẽ hỗ trợ sản xuất tại nhiều quốc gia sản xuất (cà phê) ở châu Mỹ Latin và châu Á, trong đó có Colombia và Việt Nam" - Fitch Solutions nhận định. Tổ chức này tin tưởng mức tiêu thụ cà phê sẽ tăng cao tại nhiều thị trường chính yếu như EU và Nhật Bản.

Cũng theo đánh giá của các chuyên gia thì tình trạng này sẽ được giải quyết trong những tháng cuối năm. Quý IV này xuất khẩu cà phê được dự báo sẽ tăng trưởng tích cực. Các vướng mắc trong chuỗi cung ứng đang cần được khẩn trương tháo gỡ, mà trước mắt là trong lưu thông vận chuyển.

Để tận dụng cơ hội, Bộ Công Thương cho rằng, ngành cà phê cần tập trung vào một số giải pháp, trong đó, các doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với Bộ và các ngành chức năng để nắm bắt thông tin thị trường, thay đổi phương thức giao dịch, đa dạng hóa hình thức vận chuyển để phù hợp với bối cảnh dịch bệnh.

Theo Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), cà phê đang là mặt hàng có mức tăng trưởng giao dịch mạnh nhất trong quý III, với giá trị giao dịch trung bình đạt trên 1.200 tỷ đồng mỗi phiên. Tốc độ tăng hơn 20% mỗi tháng thể hiện sự hấp dẫn của mặt hàng giao dịch này, nhưng phần lớn là do sức hút từ biến động lớn của giá cà phê trên 2 sở ICE London và ICE New York.

Đà tăng được hỗ trợ rất nhiều nhờ những lo ngại về nguồn cung, khi những bang sản xuất cà phê chủ đạo ở Brazil đều bị thiệt hại nặng nề vì hạn hán và sương giá bất thường. Mức giá cao kỉ lục trong 7 năm của cà phê Arabica đã khiến cho rất nhiều nhà rang xay cân nhắc chuyển sang sử dụng cà phê Robusta và đẩy giá của loại cà phê này lên theo.

Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 khiến cho tình trạng thiếu hụt container và giá cước vận tải leo thang, làm cho hàng kẹt cứng tại các cảng biển ở hai nước xuất khẩu lớn tại Đông Nam Á là Việt Nam và Indonesia, đã tiếp tục thúc đẩy giá cà phê bứt phá sau khi những lo ngại về thời tiết đã qua đi. Hai tập đoàn hàng đầu thế giới là Starbucks và Nestle đều cân nhắc tới việc tăng giá bán các sản phẩm của họ để bù lại mức tăng giá nguyên liệu đầu vào.

M.C

  • bidv-14-4
  • thp
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 149,400 152,400
Hà Nội - PNJ 149,400 152,400
Đà Nẵng - PNJ 149,400 152,400
Miền Tây - PNJ 149,400 152,400
Tây Nguyên - PNJ 149,400 152,400
Đông Nam Bộ - PNJ 149,400 152,400
Cập nhật: 28/11/2025 03:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,140 15,340
Miếng SJC Nghệ An 15,140 15,340
Miếng SJC Thái Bình 15,140 15,340
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,980 15,280
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,980 15,280
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,980 15,280
NL 99.99 14,160
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,160
Trang sức 99.9 14,570 15,170
Trang sức 99.99 14,580 15,180
Cập nhật: 28/11/2025 03:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,514 15,342
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,514 15,343
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 149 1,515
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 149 1,516
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,475 1,505
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,451 14,901
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 105,536 113,036
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 95 1,025
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 84,464 91,964
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 804 879
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 55,415 62,915
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,514 1,534
Cập nhật: 28/11/2025 03:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16677 16946 17520
CAD 18242 18518 19132
CHF 32087 32469 33110
CNY 0 3470 3830
EUR 29906 30179 31201
GBP 34048 34438 35370
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14765 15349
SGD 19778 20060 20580
THB 733 797 850
USD (1,2) 26110 0 0
USD (5,10,20) 26152 0 0
USD (50,100) 26180 26200 26409
Cập nhật: 28/11/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,189 26,189 26,409
USD(1-2-5) 25,142 - -
USD(10-20) 25,142 - -
EUR 30,203 30,227 31,371
JPY 166.03 166.33 173.26
GBP 34,586 34,680 35,504
AUD 16,989 17,050 17,492
CAD 18,499 18,558 19,086
CHF 32,522 32,623 33,305
SGD 19,964 20,026 20,650
CNY - 3,678 3,775
HKD 3,340 3,350 3,433
KRW 16.68 17.39 18.67
THB 782.87 792.54 843.84
NZD 14,821 14,959 15,306
SEK - 2,741 2,821
DKK - 4,040 4,156
NOK - 2,551 2,626
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,984.84 - 6,712.87
TWD 761.84 - 916.66
SAR - 6,932.91 7,257.22
KWD - 83,900 88,719
Cập nhật: 28/11/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,409
EUR 30,017 30,138 31,308
GBP 34,312 34,450 35,463
HKD 3,323 3,336 3,447
CHF 32,256 32,386 33,322
JPY 165.19 165.85 173.01
AUD 16,882 16,950 17,508
SGD 20,001 20,081 20,650
THB 796 799 836
CAD 18,450 18,524 19,083
NZD 14,814 15,342
KRW 17.28 18.90
Cập nhật: 28/11/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25947 25947 26409
AUD 16856 16956 17882
CAD 18422 18522 19536
CHF 32334 32364 33938
CNY 0 3688.4 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30083 30113 31836
GBP 34343 34393 36161
HKD 0 3390 0
JPY 165.15 165.65 176.17
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14873 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19931 20061 20792
THB 0 762.8 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15140000 15140000 15340000
SBJ 13000000 13000000 15340000
Cập nhật: 28/11/2025 03:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,200 26,250 26,409
USD20 26,200 26,250 26,409
USD1 26,200 26,250 26,409
AUD 16,906 17,006 18,126
EUR 30,271 30,271 31,388
CAD 18,386 18,486 19,800
SGD 20,019 20,169 20,769
JPY 165.84 167.34 171.5
GBP 34,524 34,674 35,451
XAU 15,138,000 0 15,342,000
CNY 0 3,574 0
THB 0 798 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 28/11/2025 03:00