Vì sao Việt Nam vẫn "phụ thuộc" về thức ăn gia súc?

20:36 | 23/11/2021

192 lượt xem
|
(PetroTimes) - Là một cường quốc nông nghiệp, nhưng hiện nay Việt Nam vẫn đang phải nhập hàng tỷ USD/năm để mua thức ăn gia súc. Dường như đây là một nghịch lý nhưng thực tế không phải như vậy.

Thời gian qua, việc ngành chăn nuôi lợn gặp nhiều khó khăn khi hết dịch bệnh lại đến giá thức ăn gia súc tăng cao. Người nông dân, các doanh nghiệp lao đao trước bài toán lỗ lãi đã khiến dư luận đặt ra nghi vấn về khả năng sản xuất thức ăn gia súc trong nước và nguyên nhân phải nhập khẩu quá nhiều nguyên liệu chế biến khiến giá liên tục tăng vọt.

Chăn nuôi lợn tại tỉnh Vĩnh Phúc
Chăn nuôi lợn tại tỉnh Vĩnh Phúc.

Trước hết phải khẳng định rằng hiện nay, ngành thức ăn chăn nuôi công nghiệp nước ta vẫn phải phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2020 Việt Nam chi tới 6 tỷ USD để nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.

Theo Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng năm 2021 kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu đã đạt gần 4,14 tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm 2020. Điều đáng chú ý là mới có 10 tháng đã vượt mốc 4 tỷ USD, vì vậy kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này sẽ còn tăng lên đáng kể khi kết thúc năm.

Trong thực tế, ngành thức ăn chăn nuôi có sự phát triển và tăng trưởng cao nhất trong các ngành sản xuất nông nghiệp, bình quân trong 10 năm qua đạt tăng trưởng 13-15%/năm cả về sản lượng, giá trị. Đây cũng là ngành mang lại lợi nhuận lớn nhất trong nông nghiệp Việt Nam.

Ông Tống Xuân Chinh - Cục Phó Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) - đánh giá, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi đối với bất cứ quốc gia nào cũng đều rất quan trọng, chiếm 65-70% giá trị sản xuất, chính vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến giá thành chăn nuôi của sản phẩm.

Mỗi một năm ngành chăn nuôi chúng ta cần 32-33 triệu tấn thức ăn chăn nuôi các loại, trong đó có hơn 7 triệu tấn do bà con nông dân tự sử dụng nguyên liệu phối trộn theo hướng dẫn của ngành nông nghiệp. Còn lại 26 triệu tấn (bao gồm cả thức ăn chăn nuôi và thủy sản) là do các doanh nghiệp sản xuất.

Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam đang đứng đầu Đông Nam Á và đứng thứ 10 thế giới về công nghệ.

Ngoài đầu tư về công nghệ, các doanh nghiệp còn đầu tư mở rộng quy mô nhà máy, xưởng sản xuất; tiêu biểu là những doanh nghiệp, tập đoàn lớn như CP, Deheus… đã và đang xây dựng những nhà máy sản xuất hiện đại ở Tây Bắc, Tây Nguyên, kết hợp với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư dây chuyển, thiết bị hiện đại.

3139-1s
Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu chế biến không phải là thiếu năng lực sản xuất.

Ông Tống Xuân Chinh cho biết thêm, Việt Nam là thị trường có tiềm năng lớn khi ngoài việc đáp ứng nhu cầu thịt, trứng sữa cho 97 triệu người dân trong nước, chúng ta còn có tham vọng xuất khẩu các sản phẩm từ chăn nuôi. Thực tế trong những năm gần đây, xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đã bước đầu mang về giá trị khoảng 1 tỷ USD.

Bất cập lớn nhất là ngành thức ăn chăn nuôi còn phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Nhiều nghi vấn đã được đặt ra là tại sao chúng ta có sản lượng lúa lớn mà không sử dụng để làm thức ăn chăn nuôi lại phải đi nhập khẩu? Tại sao Việt Nam không trồng ngô trong nước lại phải đi nhập khẩu? Hàng năm chúng ta xuất khẩu một số lượng lớn thủy sản như cá tra, tôm, thừa rất nhiều phụ phẩm đầu tôm, cá tra, tại sao chúng ta không sử dụng những phụ phẩm ấy để chế biến thức ăn chăn nuôi?...

Cục Phó Cục Chăn nuôi lý giải: "Đơn giản đây là bài toán kinh tế, khi 1kg ngô chỉ khoảng 7.000-8.000/kg còn 1kg gạo cũng đã 12.000-13.000 đồng/kg. Mặt khác, diện tích đất đai của chúng ta phần lớn là trồng lúa và phù hợp với trồng lúa nước. Còn thông tin tại sao xuất khẩu rồi lại nhập về thì đây là câu chuyện cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tùy theo tính toán về kinh tế mà họ có động thái phù hợp với mục tiêu mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp".

Ông Tống Xuân Chinh nhấn mạnh: "Đây là hoạt động hợp pháp của doanh nghiệp, là vấn đề chúng ta không can thiệp được và cũng không nên can thiệp".

Cục Phó Cục Chăn nuôi cho biết thêm:Hiện bà con nông dân một số vùng đã chuyển một phần đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ngô sinh khối để làm thức ăn gia súc. Theo mục tiêu của Bộ, sẽ có 500.000ha đất lúa kém hiệu quả chuyển sang trồng ngô sinh khối để có thể chủ động hơn trong nguyên liệu phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi”.

Như vậy, có thể thấy rằng việc giá trị ngành chăn nuôi đang phải phụ thuộc phần lớn vào thức ăn gia súc là chuyện lẽ tất yếu. Đáng mừng là với sự đầu tư lớn của các doanh nghiệp trong nước, quốc tế, ngành sản xuất thức ăn gia súc của Việt Nam sẽ ngày càng phát triển hơn nữa, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước cũng như tiến tới giảm giá thành sản phẩm. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao giá trị chuỗi sản phẩm chăn nuôi trong nước cũng như tận dụng được toàn bộ các phụ phẩm của ngành nông nghiệp.

Tùng Dương

Theo Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng năm 2021 kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu đã đạt gần 4,14 tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm 2020.
Bầu Đức tìm lại niềm vui với chăn nuôi heo, bò Bầu Đức tìm lại niềm vui với chăn nuôi heo, bò
Tháo gỡ khó khăn cho ngành nông nghiệp Tháo gỡ khó khăn cho ngành nông nghiệp
Xương chân gà cũng trở thành hàng Xương chân gà cũng trở thành hàng "lậu"
Đồng Nai công bố chính thức về chất tạo nạc thịt lợn Đồng Nai công bố chính thức về chất tạo nạc thịt lợn

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,000 149,000
Hà Nội - PNJ 146,000 149,000
Đà Nẵng - PNJ 146,000 149,000
Miền Tây - PNJ 146,000 149,000
Tây Nguyên - PNJ 146,000 149,000
Đông Nam Bộ - PNJ 146,000 149,000
Cập nhật: 19/11/2025 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,730 14,930
Miếng SJC Nghệ An 14,730 14,930
Miếng SJC Thái Bình 14,730 14,930
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,630 14,930
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,630 14,930
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,630 14,930
NL 99.99 13,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,830
Trang sức 99.9 14,090 14,820
Trang sức 99.99 14,100 14,830
Cập nhật: 19/11/2025 07:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,473 14,932
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,473 14,933
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,453 1,478
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,453 1,479
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,438 1,468
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 140,847 145,347
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 102,761 110,261
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 92,484 99,984
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,207 89,707
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,243 85,743
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,872 61,372
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,473 1,493
Cập nhật: 19/11/2025 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16607 16875 17453
CAD 18265 18541 19156
CHF 32466 32850 33501
CNY 0 3470 3830
EUR 29940 30213 31237
GBP 33897 34287 35219
HKD 0 3258 3460
JPY 163 167 173
KRW 0 17 19
NZD 0 14633 15222
SGD 19712 19994 20515
THB 729 792 845
USD (1,2) 26119 0 0
USD (5,10,20) 26161 0 0
USD (50,100) 26189 26209 26388
Cập nhật: 19/11/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,168 26,168 26,388
USD(1-2-5) 25,122 - -
USD(10-20) 25,122 - -
EUR 30,173 30,197 31,343
JPY 166.89 167.19 174.16
GBP 34,298 34,391 35,206
AUD 16,872 16,933 17,375
CAD 18,472 18,531 19,058
CHF 32,829 32,931 33,621
SGD 19,854 19,916 20,538
CNY - 3,663 3,760
HKD 3,341 3,351 3,434
KRW 16.67 17.38 18.66
THB 776.88 786.47 837.62
NZD 14,625 14,761 15,109
SEK - 2,743 2,823
DKK - 4,036 4,153
NOK - 2,572 2,646
LAK - 0.93 1.29
MYR 5,929.12 - 6,651.9
TWD 765.63 - 921.81
SAR - 6,934.1 7,258.46
KWD - 83,904 88,722
Cập nhật: 19/11/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,165 26,168 26,388
EUR 29,951 30,071 31,204
GBP 34,017 34,154 35,123
HKD 3,322 3,335 3,442
CHF 32,508 32,639 33,548
JPY 165.78 166.45 173.47
AUD 16,755 16,822 17,359
SGD 19,864 19,944 20,484
THB 789 792 828
CAD 18,418 18,492 19,028
NZD 14,644 15,152
KRW 17.25 18.84
Cập nhật: 19/11/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26122 26122 26388
AUD 16787 16887 17815
CAD 18445 18545 19559
CHF 32726 32756 34343
CNY 0 3675.2 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30125 30155 31878
GBP 34199 34249 36009
HKD 0 3390 0
JPY 166.43 166.93 177.47
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14744 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19868 19998 20730
THB 0 758.3 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14730000 14730000 14930000
SBJ 13000000 13000000 14930000
Cập nhật: 19/11/2025 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,388
USD20 26,198 26,248 26,388
USD1 26,198 26,248 26,388
AUD 16,800 16,900 18,011
EUR 30,261 30,261 31,430
CAD 18,361 18,461 19,773
SGD 19,921 20,071 20,635
JPY 166.89 168.39 172.99
GBP 34,269 34,419 35,195
XAU 14,728,000 0 14,932,000
CNY 0 3,559 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/11/2025 07:00