Tương lai của Trung Quốc: Hàng loạt vấn đề “đau đầu” với Chủ tịch Tập Cận Bình

17:29 | 08/09/2019

1,537 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Không chỉ phải đối mặt với một cuộc chiến thương mại leo thang, Bắc Kinh cũng còn vô số những vấn đề kinh tế rắc rối khác.
Tương lai của Trung Quốc: Hàng loạt vấn đề “đau đầu” với Chủ tịch Tập Cận Bình
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình

Tổng thống Donald Trump đã thông báo trong tuần này rằng bất kỳ thỏa thuận thương mại nào mà Trung Quốc có thể đạt được từ Mỹ sẽ “khó khăn hơn nhiều” khi ông tái đắc cử. Tất nhiên, sự ẩn ý là Bắc Kinh nên thực sự làm điều gì đó trước tháng 11 năm 2020.

Cùng ngày hôm đó, Chủ tịch Tập Cận Bình đã nói trong một cuộc họp với các quan chức ở Bắc Kinh rằng những thách thức mà Trung Quốc phải đối mặt sẽ trở nên phức tạp hơn và những vấn đề này có thể kéo dài ít nhất là đến năm 2049.

Tính liên tục của chính trị và những kế hoạch dài hạn thường được coi là một trong những thế mạnh của Trung Quốc. Đây cũng là điều khiến nhiều người nghi ngờ về chiến lược cuối cùng của Bắc Kinh, chờ Tổng thống Trump hết nhiệm kỳ và chuẩn bị cách để đối phó với một chính quyền mới.

Nhưng giống như ông Donald Trump, khi tương lai có một cuộc bầu cử hiện ra, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng có những vấn đề khác mà ông phải cân bằng. Nền kinh tế, dĩ nhiên là thách thức lớn đối với ông.

Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc đang chậm lại và triển vọng trong tương lai sẽ chậm hơn nữa. Một số nhà kinh tế đã cắt giảm dự báo tăng trưởng của Trung Quốc vào năm 2020 trong tuần này, sau khi mức thuế mới có hiệu lực vào ngày 1/9.

Không chỉ phải đối mặt với một cuộc chiến thương mại leo thang, Bắc Kinh cũng còn vô số những vấn đề kinh tế khác. Nợ công, áp lực trong hệ thống ngân hàng hay bong bóng bất động sản là một vài nỗi lo trong số đó.

Và ngay cả khi Trung Quốc có thể chờ đợi Tổng thống Trump bãi nhiệm, thì không có gì đảm bảo rằng một chính quyền mới sẽ dễ đối phó hơn. Cuối cùng, có rất nhiều lý do tại sao Bắc Kinh cần một thỏa thuận trước tháng 11/2020.

Hồng Kông

Nhà lãnh đạo Hồng Kông, Carrie Lam vừa có động thái nhượng bộ lớn nhất đối với những người biểu tình, những người đã làm rung chuyển thành phố bằng những cuộc biểu tình bạo lực trong ba tháng qua. Bà tuyên bố trong tuần này rằng đề xuất dự luật cho phép dẫn độ sang Trung Quốc, nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn, sẽ chính thức được rút lại.

Thị trường chứng khoán Hồng Kông phản ứng với tin tức bằng sự gia tăng đột biến lớn nhất kể từ năm 2011, nhưng đến hiện giờ, nó vẫn chưa làm hài lòng nhiều người phản đối, những người gọi bà Lam là nhượng bộ “quá ít và quá muộn màng”. Với nhiều cuộc biểu tình đã được kêu gọi hơn vào cuối tuần này, cần có một động thái rõ ràng hơn vào ngày thứ hai để giải quyết triệt để tình hình.

Huawei

Gã khổng lồ công nghệ Trung Quốc đã thể hiện thái độ đối lập với Washington trong tuần này bằng cách đưa ra một loạt các cáo buộc chống lại chính phủ Mỹ. Khiếu nại của Huawei, bao gồm các xác nhận rằng Mỹ đã bắt giữ trái phép các nhân viên của họ, và thậm chí là gây áp lực buộc các nhân viên này phải tiết lộ thông tin của công ty.

Bây giờ, Huawei đang phải đối mặt với những vấn đề rất lớn, cho biết từ tháng trước, bộ phận bán điện thoại di động của họ có thể mất 10 tỷ đô la doanh thu vì những hạn chế đối với những công nghệ mà Mỹ đã cấm. Đồng thời, Mỹ cũng đang thúc đẩy các đồng minh của mình cấm thiết bị của Huawei.

Giá thịt lợn

Dịch tả lợn châu Phi vẫn đang tiếp tục tàn phá Trung Quốc, thành phố Nam Ninh bắt đầu giới hạn, không chỉ giá bán thịt lợn mà còn là mỗi người dân chỉ có thể mua bao nhiêu kg. Bởi vì thịt lợn là món ăn chủ yếu trên hầu hết các bàn ăn tại Trung Quốc, giá cả và nguồn cung thịt lợn đang là một vấn đề lớn.

Điều này có thể khiến Bắc Kinh bối rối, vì tính nghiêm trọng của nó. Phó Thủ tướng Hồ Xuân Hoa, là thành viên của Bộ Chính trị, cuối tuần trước đã gọi tình hình là “nghiệt ngã hơn nhiều so với những gì chúng tôi đã mường tượng”.

Quyền sở hữu nhà đất

Một vấn đề cũng rắc rối không kém ở Trung Quốc đó là giá nhà. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy tình trạng bất ổn của Hồng Kông là thị trường bất động sản tại đây đắt đỏ nhất thế giới. Điều này đã khiến nhiều người tuyệt vọng về ý định sở hữu một ngôi nhà.

Đó cũng là một vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách ở Bắc Kinh đang lo ngại, với việc Bộ Chính trị Trung Quốc gần đây, vào tháng bảy nói rằng Trung Quốc sẽ không nới lỏng sự kiểm soát đối với thị trường bất động sản, ngay cả khi nền kinh tế giảm tốc.

Để thấy được những rủi ro mà giá bất động sản tăng đột biến có thể gây ra, hãy nhìn vào thành phố Hạ Môn. Giá nhà tại nơi mà gọi là thành phố Trung Quốc hạng hai này đã tăng hơn gấp ba lần trong thập kỷ qua. Một căn hộ rộng hơn 92 mét vuông ở Hạ Môn hiện có giá tương đương với một căn hộ tương tự ở Luân Đôn, mặc dù tiền lương tại đây chỉ bằng một phần tư so với tại thủ đô của Vương quốc Anh.

Theo Dân trí

Ấn Độ bắt tay Nga thách thức tầm ảnh hưởng của Trung Quốc tại Biển Đông
Chiến tranh thương mại leo thang: Doanh nghiệp Việt nên lo hơn mừng!
Cảnh sát phong tỏa trung tâm Bắc Kinh
Động thái "xuống nước" của Trung Quốc trước thềm đàm phán thương chiến với Mỹ

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 117,200
AVPL/SJC HCM 114,900 117,200
AVPL/SJC ĐN 114,900 117,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 08/06/2025 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 113.600
TPHCM - SJC 114.900 117.200
Hà Nội - PNJ 111.000 113.600
Hà Nội - SJC 114.900 117.200
Đà Nẵng - PNJ 111.000 113.600
Đà Nẵng - SJC 114.900 117.200
Miền Tây - PNJ 111.000 113.600
Miền Tây - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 112.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 112.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 111.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 84.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 66.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 47.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 103.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 69.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 73.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 76.990
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 42.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 37.440
Cập nhật: 08/06/2025 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 11,410
Trang sức 99.9 10,980 11,400
NL 99.99 10,740
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,490 11,720
Miếng SJC Nghệ An 11,490 11,720
Miếng SJC Hà Nội 11,490 11,720
Cập nhật: 08/06/2025 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 08/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 08/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 08/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 08/06/2025 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/06/2025 16:00