Tin tức kinh tế ngày 25/5: Tôm hùm đất mua cực rẻ bán cực đắt

09:19 | 26/05/2019

599 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Hiện, trên các chợ online, tôm hùm đất được rao bán với giá 350.000 – 700.000 đồng một kg, nhưng giá nhập về chỉ vài chục nghìn đồng; Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao sai quy định hơn  nghìn tỷ đồng cho 4 dự án đường cao tốc; 2,15 tỷ USD vốn nước ngoài đăng ký riêng trong tháng 5; Chính phủ trả nợ thay gần 100 triệu USD cho Tổng công ty Giấy Việt Nam… là những vấn đề kinh tế đáng chú ý trong tuần qua    

Tôm hùm đất: mua cực rẻ bán cực đắt

Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, từ tháng 1 đến ngày 15/5/2019, doanh nghiệp Việt Nam đã nhập hơn 23 tấn tôm hùm đất còn vỏ, dạng đông lạnh, tăng đột biến so với cả năm 2018 với trị giá khai báo hải quan hơn 82.800 USD. Cảng Cát Lái (TP HCM) là đầu mối nhập khẩu chủ yếu lượng tôm hùm đất hấp, đông lạnh về Việt Nam.

Theo đó, mỗi kg tôm hùm đất loại đông lạnh nhập về Việt Nam có giá gần 90.000 đồng, rẻ hơn 4-6 lần so với giá bán lẻ đến tay người tiêu dùng. Hiện, trên các chợ online, tôm hùm đất được rao bán với giá 350.000 – 700.000 đồng một kg.

diem tin kinh te tom hum dat mua cuc re ban cuc dat
Điểm tin kinh tế: Tôm hùm đất mua cực rẻ bán cực đắt

Chia sẻ với báo chí, một đơn vị từng nhập khẩu tôm hùm đất cho hay, thực tế giá nhập loại này vào Việt Nam còn rẻ hơn nhiều, có thời điểm chỉ 40.000-70.000 đồng một kg. Với những đơn vị nhập lậu, họ dễ dàng kiếm lời nhiều hơn khi không phải chịu thuế nhập khẩu.

Theo Tổng Cục Hải quan, năm cả nước cũng nhập hơn 10 tấn tôm hùm đất loại đông lạnh, giá trị khai báo hải quan là hơn 10.000 USD. Tuy nhiên, cơ quan này cho rằng vẫn chưa ghi nhận việc nhập khẩu chính ngạch tôm hùm đất còn sống vào Việt Nam từ năm 2018 đến nay. Do đó, toàn bộ số lượng tôm hùm sống đang bán tràn lan tại Việt Nam là hàng nhập lậu.

Giao sai hơn 5 nghìn tỷ đồng cho 4 dự án đường cao tốc

Trong báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán niên độ 2017, Kiểm toán Nhà nước chỉ ra hàng loạt sai phạm trong công tác giao kế hoạch vốn nhiều bộ ngành và địa phương.

Điển hình trong số này là việc Bộ Kế hoạch & Đầu tư chưa ưu tiên bố trí kế hoạch vốn cho các dự án đã hoàn thành, các dự án đăng ký nhu cầu vốn hoàn ứng, vốn trả nợ và bố trí vốn khởi công mới không phù hợp. Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 phân bổ vốn ngân sách trung ương cho 21 chương trình mục tiêu chỉ đạt 53,6% kế hoạch, thiếu hơn 130.000 tỷ đồng dẫn đến áp lực cho ngân sách trong giai đoạn tiếp theo.

Theo Kiểm toán Nhà nước, Bộ Kế hoạch & Đầu tư cũng giao 5.338 tỷ đồng kế hoạch vốn cho 4 dự án đường cao tốc của Tổng công ty Đầu tư và phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) không đúng nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và Quốc hội.

Cụ thể, Bộ Kế hoạch & Đầu tư giao sai quy định 2.600 tỷ đồng cho dự án cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, 498 tỷ đồng cho dự án cao tốc TP HCM – Long Thành – Dầu Giây, 133 tỷ đồng cho dự án cao tốc Nội Bài – Lào Cai và 2.105 tỷ đồng cho dự án cao tốc Bến Lức – Long Thành. Năm ngoái, cơ quan này tiếp tục giao kế hoạch vốn xấp xỉ 2.364 tỷ đồng cho VEC để đầu tư các dự án cao tốc.

Kiểm toán Nhà nước kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư xử lý dứt điểm việc chuyển đổi 4 dự án của VEC từ hình thức cho vay lại sang Nhà nước đầu tư trực tiếp và thu hồi kế hoạch vốn đã giao cho 4 dự án này trong giai đoạn 2016-2018 là 11.523 tỷ đồng.

Sửa đổi Luật Chứng khoán để hoàn thiện thể chế, ổn định và phát triển thị trường chứng khoán

Ông Vũ Quang Việt, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho biết, việc xây dựng Dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi) nhằm hoàn thiện thể chế, ổn định môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững, an toàn của thị trường chứng khoán. Dự thảo luật được sửa đổi cũng đáp ứng yêu cầu hội nhập, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế.

diem tin kinh te tom hum dat mua cuc re ban cuc dat
Thị trường chứng khoán (Ảnh minh họa)

Dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi) gồm 10 chương, 136 điều. So với Luật Chứng khoán hiện hành, dự thảo Luật sửa đổi 97 điều, bổ sung 31 điều, bãi bỏ 31 điều và giữ nguyên 8 điều.

Cụ thể, đối với chào bán chứng khoán ra công chúng, luật hiện hành chưa tách riêng điều kiện để phù hợp với tính chất khác nhau giữa chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) với chào bán thêm ra công chúng... dẫn đến có trường hợp doanh nghiệp phát hành với giá trị rất lớn, gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, tiềm ần rủi ro đối với nhà đầu tư. Dự thảo luật mới có quy định, điều kiện chào bán được sửa đổi, bổ sung, chuẩn hóa theo hướng chặt chẽ hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.

Dự án luật cũng sửa đổi điều kiện về cơ cấu cổ đông có tối thiểu 10% số cổ phần có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn nắm giữ, điều này phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời, dự thảo luật mới nâng điều kiện về vốn điều lệ đã góp tối thiểu từ 10 tỷ đồng lên 30 tỷ đồng (tương ứng với việc nâng điều kiện về vốn điều lệ trong chào bán chứng khoán).

Về thanh tra xử lý vi phạm, gian lận trên thị trường, dự thảo Luật mới sửa đổi cũng bổ sung một số quyền cho UBCKNN như: Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, dữ liệu hoặc yêu cầu tổ chức, cá nhân giải trình, đến làm việc liên quan đến nội dung thanh tra, kiểm tra…

2,15 tỷ USD vốn nước ngoài đăng ký riêng trong tháng 5

Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/5/2019, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đạt 16,74 tỷ USD, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 5 tháng đầu năm 2019, vốn đầu tư tăng ở cả 3 hợp phần.

Theo đó, cả nước có 1.363 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký cấp mới 6,46 tỷ USD, tăng 38,7% so với cùng kỳ năm 2018.

Cùng với đó, có 505 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm 2,63 tỷ USD, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2018. Ngoài ra, có 3.160 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN với tổng giá trị vốn góp 7,65 tỷ USD, gấp 2,8 lần so với cùng kỳ và chiếm 45,7% tổng vốn đăng ký. Không tính lượt góp vốn 3,85 tỷ USD của nhà đầu tư Hồng Kông thì tổng giá trị vốn góp vẫn tăng 38,2% so với cùng kỳ năm 2018.

Đáng chú ý đó là tốc độ giải ngân vốn ĐTNN vẫn duy trì được mức tăng nhẹ, ước đạt 7,3 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2018.

19 ngành, lĩnh vực thu hút đầu tư nhất nhưng trong đó phải kể đến lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với tổng số vốn đạt 12 tỷ USD, chiếm 71,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Thứ hai là động kinh doanh bất động sản với tổng vốn đầu tư 1,138 tỷ USD, chiếm 8,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực bán buôn, bán lẻ đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 864 triệu USD, chiếm 5,2% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Đã có 88 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,08 tỷ USD, chiếm 30,4% tổng vốn đầu tư. Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 2,62 tỷ USD, chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư. Singapore đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,09 tỷ USD, chiếm 12,5% tổng vốn đầu tư.

Theo địa bàn đầu tư, Hà Nội là thàn phố thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất với tổng số vốn đăng ký hơn 4,79 tỷ USD, chiếm 28,6% tổng vốn đầu tư. Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ hai với tổng vốn đăng ký 2,78 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng vốn đầu tư. Bình Dương đứng thứ ba với tổng số vốn đăng ký hơn 1,25 tỷ USD chiếm 7,4% tổng vốn đầu tư.

Nợ công xuống mức thấp nhất từ năm 2015

Theo báo cáo vừa được Chính phủ gửi lên Quốc hội, bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN) sau khi đánh giá lại, giảm 12,5 nghìn tỷ đồng so với mức báo cáo Quốc hội trước đó, ở mức 191,5 nghìn tỷ đồng, bằng 3,46% GDP, thấp hơn so với dự toán đã được Quốc hội quyết định (3,7% GDP).

Tính đến 31/12/2018, dư nợ công ước khoảng 58,4% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 50% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 46% GDP. Ủy ban TCNS nhận thấy, tình hình nợ công đã được quản lý, kiểm soát chặt chẽ hơn, các mức dư nợ đều thấp hơn quy định trong kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020.

Tại báo cáo gửi Quốc hội, Bộ Tài chính cũng cho hay, nợ công đã giảm xuống mức thấp nhất 3 năm qua. Kết quả này cũng thấp hơn kịch bản nợ công ở mức 63,9% GDP mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra hồi tháng 8/2018 và trong Nghị quyết 01 của Chính phủ.

Chính phủ trả nợ thay gần 100 triệu USD cho nhà máy giấy bán

Theo báo cáo của Chính phủ với Quốc hội, trong năm 2018, Quỹ Tích lũy trả nợ vẫn phải ứng vốn trả nợ cho Tổng công ty Giấy Việt Nam với số tiền 7,61 triệu EUR (tương đương 8,13 triệu USD), nâng tổng trị giá ứng trả lên 82,6 triệu EUR (tương đương khoảng 97 triệu USD).

Tuy nhiên, đến hết năm 2018, Bộ Công Thương và Tổng công ty Giấy Việt Nam vẫn chưa thể xử lý xong tài sản dự án Nhà máy Giấy Phương Nam để thu hồi cho Quỹ Tích lũy trả nợ.

Dự án nhà máy giấy Phương Nam là một trong 12 dự án yếu kém, thua lỗ của ngành công thương. Theo như đại diện Bộ Tài chính chia sẻ mới đây thì dự án này "đã đắp chiếu từ lâu và 3-4 lần bán đấu giá nhưng không ai mua".

Nguyễn Hưng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,150 ▼300K 74,100 ▼300K
Nguyên liệu 999 - HN 73,050 ▼300K 74,000 ▼300K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 25/04/2024 13:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 81.700 ▼800K 84.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 13:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,295 ▼25K 7,500 ▼25K
Trang sức 99.9 7,285 ▼25K 7,490 ▼25K
NL 99.99 7,290 ▼25K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,270 ▼25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,360 ▼25K 7,530 ▼25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,360 ▼25K 7,530 ▼25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,360 ▼25K 7,530 ▼25K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▼40K 8,400 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▼40K 8,400 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▼40K 8,400 ▼40K
Cập nhật: 25/04/2024 13:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,700 ▼800K 84,000 ▼500K
SJC 5c 81,700 ▼800K 84,020 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,700 ▼800K 84,030 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 13:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,095.55 16,258.14 16,779.72
CAD 18,066.09 18,248.58 18,834.02
CHF 27,070.48 27,343.92 28,221.15
CNY 3,431.82 3,466.48 3,578.23
DKK - 3,577.53 3,714.53
EUR 26,481.22 26,748.71 27,933.23
GBP 30,827.96 31,139.35 32,138.35
HKD 3,160.58 3,192.50 3,294.92
INR - 303.87 316.02
JPY 158.45 160.06 167.71
KRW 15.94 17.71 19.32
KWD - 82,205.72 85,492.23
MYR - 5,253.88 5,368.47
NOK - 2,265.78 2,361.97
RUB - 261.72 289.72
SAR - 6,750.57 7,020.45
SEK - 2,288.25 2,385.40
SGD 18,184.25 18,367.93 18,957.20
THB 604.07 671.19 696.90
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,245 16,345 16,795
CAD 18,255 18,355 18,905
CHF 27,258 27,363 28,163
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,588 3,718
EUR #26,671 26,706 27,966
GBP 31,206 31,256 32,216
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 159.39 159.39 167.34
KRW 16.61 17.41 20.21
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,269 2,349
NZD 14,808 14,858 15,375
SEK - 2,281 2,391
SGD 18,168 18,268 18,998
THB 629.54 673.88 697.54
USD #25,123 25,123 25,433
Cập nhật: 25/04/2024 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,175.00 25,177.00 25,477.00
EUR 26,671.00 26,778.00 27,961.00
GBP 31,007.00 31,194.00 32,152.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,297.00
CHF 27,267.00 27,377.00 28,214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16,215.00 16,280.00 16,773.00
SGD 18,322.00 18,396.00 18,933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,215.00 18,288.00 18,819.00
NZD 14,847.00 15,342.00
KRW 17.67 19.30
Cập nhật: 25/04/2024 13:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25125 25125 25477
AUD 16271 16321 16824
CAD 18292 18342 18798
CHF 27437 27487 28049
CNY 0 3458.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26860 26910 27621
GBP 31315 31365 32018
HKD 0 3140 0
JPY 160.88 161.38 165.89
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14841 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18404 18454 19016
THB 0 641.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8180000 8180000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 13:45