Tin kinh tế ngày 21/9: Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản sụt giảm mạnh

07:00 | 22/09/2019

505 lượt xem
|
(PetroTimes) - Bán đồ gia dụng nhà bếp, Thế giới Di động thu hơn 5000 tỷ đồng trong 8 tháng; Lãi suất liên ngân hàng và giá USD cùng giảm; Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản sụt giảm mạnh và Mục tiêu xuất khẩu ngành gỗ đạt 25 tỷ USD năm 2025 là khả thi.... là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 21/9.    
tin kinh te ban do gia dung nha bep the gioi di dong thu hon 5000 ty dong trong 8 thangTin tức kinh tế ngày 20/9: Thiếu kho bãi, nhân lực, ngành logistics hàng không khó 'cất cánh'
tin kinh te ban do gia dung nha bep the gioi di dong thu hon 5000 ty dong trong 8 thangTin kinh tế 19/9: “Doanh nghiệp Việt chỉ thu tiền lẻ ở chuỗi giá trị toàn cầu”
tin kinh te ban do gia dung nha bep the gioi di dong thu hon 5000 ty dong trong 8 thangTin kinh tế 18/9: Xây đường băng sân bay gần 2000 tỷ đồng rồi… “đắp chiếu”

Bán đồ gia dụng nhà bếp, Thế giới Di động thu hơn 5000 tỷ đồng trong 8 tháng

Trong 8 tháng đầu năm hệ thống Điện máy Xanh của Thế giới Di động đã bán gần 18 triệu sản phẩm gia dụng, dụng cụ nhà bếp, đem về hơn 5.100 tỷ đồng doanh thu, tương đương trung bình 650 tỷ đồng mỗi tháng.

tin kinh te ban do gia dung nha bep the gioi di dong thu hon 5000 ty dong trong 8 thang
Bán đồ gia dụng nhà bếp, Thế giới Di động thu hơn 5000 tỷ đồng trong 8 tháng

Trong 8 tháng đầu năm 2019, Công ty Cổ phần đầu tư Thế giới Di động (mã chứng khoán MWG) ghi nhận doanh thu thuần hợp nhất đạt 68.855 tỷ đồng (tăng 17% so với cùng kỳ) và lợi nhuận sau thuế đạt 2.697 tỷ đồng (tăng trưởng 37% so với cùng kỳ).

Luỹ kế 8 tháng, MWG đã hoàn thành 63% kế hoạch doanh thu và 76% kế hoạch lợi nhuận sau thuế cả năm.

Tính đến cuối tháng 8, MWG có 2.621 cửa hàng, tăng 91 cửa hàng so với cuối tháng 7. Trong đó, chuỗi Điện máy Xanh có thêm 21 cửa hàng mới do cả mở mới và chuyển đổi; chuỗi Bách hóa Xanh phát triển thêm 66 điểm bán, nâng tổng số cửa hàng lên 725.

Chuỗi Điện thoại Siêu rẻ có 10 cửa hàng thử nghiệm tại quận Gò Vấp, TP HCM (trung bình giá thấp hơn khoảng 10% so với cửa hàng Thế giới Di động cho các sản phẩm có mức giá từ 8 triệu trở xuống, khách hàng không được hưởng các dịch vụ hậu mãi “5 sao”).

Trong 8 tháng đầu năm đã có gần 18 triệu sản phẩm gia dụng, dụng cụ nhà bếp được bán ra tại các cửa hàng Điện máy Xanh và đóng góp cho MWG hơn 5.100 tỷ đồng doanh thu. Trung bình mỗi tháng nhóm này đóng góp khoảng 650 tỷ đồng, tương đương với hơn 7% doanh thu của cả công ty.

“Mặc dù giá trị mỗi sản phẩm không cao nhưng những sản phẩm này đang mang lại biên lợi nhuận tốt cho MWG”, thông tin từ Thế giới Di động cho biết.

Cũng theo doanh nghiệp này, theo chu kỳ kinh doanh, sức tiêu thụ điện thoại và điện máy có xu hướng chững lại trong quý 3 và sẽ tăng trưởng trở lại vào mùa lễ hội cuối năm.

Trong đó, tháng 8 là thấp điểm nhất trong năm về cả doanh thu và lợi nhuận do đặc điểm thời tiết rơi vào mùa mưa bão và nhu cầu mua sắm của người dân thường giảm mạnh trong tháng 7 âm lịch.

Lãi suất liên ngân hàng và giá USD cùng giảm

Lãi suất tiền đồng giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng trong tuần qua liên tục giảm sau khi Ngân hàng Nhà nước cắt giảm đồng loạt lãi suất điều hành trước đó.

tin kinh te ban do gia dung nha bep the gioi di dong thu hon 5000 ty dong trong 8 thang
Lãi suất liên ngân hàng và giá USD cùng giảm mạnh

Ngày 19/9, lãi suất bình quân trên thị trường liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm còn 2,21%/năm; 1 tuần còn 2,49%/năm; 2 tuần còn 2,88%/năm; 1 tháng còn 3,13%/năm; 3 tháng còn 3,65%/năm… So với ngày 13/9 (Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định giảm hàng loạt lãi suất điều hành 0,25%), lãi suất giảm 0,3 - 0,6%/năm nhưng nếu so với thời điểm lãi suất tăng vọt cuối tháng 8, lãi suất hiện giảm 1,5 - 2,8%/năm. Doanh số giao dịch tiền đồng trên thị trường liên ngân hàng ổn định, đối với kỳ hạn qua đêm ở mức 31.281 tỉ đồng, 1 tuần ở mức 10.199 tỉ đồng, 2 tuần ở mức 7.354 tỉ đồng…

Quyết định cắt giảm lãi suất điều hành 0,25%/năm của Ngân hàng Nhà nước đã làm thị trường lãi suất lắng dịu lại. Lãi suất huy động tiền đồng của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế không còn nóng như trước đó.

Lãi suất tiền đồng giảm đã làm giá USD trên thị trường tăng vào những ngày đầu tuần nhưng cuối tuần có xu hướng giảm từ 10 - 15 đồng/USD. Các ngân hàng thương mại giao dịch trên thị trường liên ngân hàng về sát giá mua của Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước, ở mức 23.200 đồng/USD.

Ngày 21.9, giá USD tại ACB giảm 5 đồng, mua vào còn 23.150 đồng, bán ra 23.250 đồng; Vietinbank giảm 3 đồng, mua vào còn 23.140 đồng, bán ra 23.260 đồng… Ngân hàng Nhà nước giữ tỷ giá trung tâm ở mức 23.142 đồng/USD. Trên thị trường tự do, giá USD giảm 10 đồng, mua vào còn 23.180 đồng, bán ra 23.200 đồng.

Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản sụt giảm mạnh

Nhận định mới đây từ Bộ Công Thương rất đáng lưu tâm khi cho rằng xuất khẩu (XK) nông sản được dự báo sẽ còn đối mặt với nhiều thách thức, khiến khu vực nông, lâm thủy sản khó có thể đạt mức tăng trưởng cao.

Có hai nguyên nhân chính được lý giải cho chuyện này. Thứ nhất là do ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2019 dự báo giảm (có một phần từ cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung) và các nước trên thế giới có xu hướng quay lại tập trung đầu tư cho phát triển nông nghiệp.

Thứ hai, các mặt hàng nông sản Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt trong XK khiến cho giá giảm sâu. Trong khi đó, các nước nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đều gia tăng bảo hộ hàng hóa nông sản thông qua các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, yêu cầu truy xuất nguồn gốc.

Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 8 tháng đầu năm nay, giá trị XK các mặt hàng nông sản chính ước đạt 12,41 tỷ USD, giảm 8,3% so cùng kỳ năm trước.

Đơn cử như giá trị XK rau quả 8 tháng đầu năm 2019 ước đạt 2,53 tỷ USD, giảm 5,8% so với cùng kỳ. Trung Quốc đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2019 với 70% thị phần. XK rau quả sang thị trường này trong 7 tháng đầu năm 2019 đạt 1,6 tỷ USD, giảm 8,1% so với cùng kỳ.

Còn XK gạo tuy tăng 0,3% về khối lượng nhưng giảm 14,9% về giá trị so với cùng kỳ. Giá gạo XK bình quân 7 tháng đầu năm 2019 đạt 433 USD/tấn, giảm 14,7% so với cùng kỳ. Xuất khẩu sắn ước đạt 1,57 triệu tấn và 608 triệu USD, giảm 6,7% về khối lượng và giảm 4,1% về giá trị so với cùng kỳ.

Trượt dài trong kim ngạch XK nông sản chủ lực của Việt Nam là cà phê, hồ tiêu và điều. XK cà phê 8 tháng đầu năm 2019 ước đạt 1,17 triệu tấn và gần 2 tỷ USD, giảm 11,8% về khối lượng và giảm 21,4% về giá trị so với cùng kỳ.

Hồ tiêu ước đạt 220 nghìn tấn và 561 triệu USD, tăng 27,4% về khối lượng nhưng giảm 3,8% về giá trị. XK hạt điều trong 8 tháng ước đạt 287 nghìn tấn và 2,1 tỷ USD, tăng 18,8% về khối lượng nhưng giảm 7,3% về giá trị.

Chính sự suy giảm về kim ngạch từ những mặt hàng chủ lực này, việc kỳ vọng XK nông sản có mức tăng trưởng cao trong năm nay là rất khó khi chỉ còn lại vỏn vẹn hơn 3 tháng cuối năm để gia tăng XK.

Mục tiêu xuất khẩu ngành gỗ đạt 25 tỷ USD năm 2025 là khả thi

Việt Nam đang định hướng trở thành trung tâm đồ gỗ, nội thất của thế giới với kim ngạch xuất khẩu vào năm 2025 đạt khoảng 25 tỷ USD.

tin kinh te ban do gia dung nha bep the gioi di dong thu hon 5000 ty dong trong 8 thang
Mục tiêu xuất khẩu ngành gỗ đạt 25 tỷ USD năm 2025 là khả thi

Theo dự báo, năm 2019, xuất khẩu gỗ của Việt Nam sẽ đạt con số 11 tỷ USD, việc có thể đạt kim ngạch xuất khẩu 25 tỷ USD năm 2025 là điều khả thi.

Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho ngành gỗ. Thêm vào đó là nhiều hiệp định như: Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA)… cũng sẽ mở ra nhiều hướng đi cho ngành gỗ.

Vì thế, doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng thương hiệu trên thị trường quốc tế để có thể thâm nhập vào các thị trường mới, tạo được chỗ đứng riêng và Nhà nước cần định hướng các doanh nghiệp để đón đầu xu thế…

Trong định hướng phát triển bền vững, đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất đồ gỗ hợp pháp và uy tín của thế giới, việc nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua thiết kế, đổi mới mẫu mã sản phẩm gỗ, đào tạo nguồn nhân lực thiết kế trẻ trung và giàu sáng tạo, là chiến lược được ngành đặt ra.

Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP HCM đang tổ chức Giải Hoa Mai – Cuộc thi thiết kế mẫu nội ngoại thất gỗ lần thứ 17 với mục đích tìm kiếm các tài năng, tạo ra nguồn nhân lực thiết kế trẻ trung và giàu sáng tạo cho ngành gỗ và cũng để đạt mục tiêu xuất khẩu đề ra.

Nguyễn Hưng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,000 ▲1200K 149,000 ▲1200K
Hà Nội - PNJ 146,000 ▲1200K 149,000 ▲1200K
Đà Nẵng - PNJ 146,000 ▲1200K 149,000 ▲1200K
Miền Tây - PNJ 146,000 ▲1200K 149,000 ▲1200K
Tây Nguyên - PNJ 146,000 ▲1200K 149,000 ▲1200K
Đông Nam Bộ - PNJ 146,000 ▲1200K 149,000 ▲1200K
Cập nhật: 16/10/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,710 ▲170K 14,910 ▲120K
Trang sức 99.9 14,700 ▲170K 14,900 ▲120K
NL 99.99 14,710 ▲170K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,710 ▲170K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,710 ▲110K 14,910 ▲110K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,710 ▲110K 14,910 ▲110K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,710 ▲110K 14,910 ▲110K
Miếng SJC Thái Bình 14,710 ▲110K 14,910 ▲110K
Miếng SJC Nghệ An 14,710 ▲110K 14,910 ▲110K
Miếng SJC Hà Nội 14,710 ▲110K 14,910 ▲110K
Cập nhật: 16/10/2025 19:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,471 ▲1325K 14,912 ▲110K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,471 ▲1325K 14,913 ▲110K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,459 ▲17K 1,481 ▲17K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,459 ▲17K 1,482 ▲17K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,436 ▲17K 1,466 ▲17K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 140,649 ▲1684K 145,149 ▲1684K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 102,611 ▲1275K 110,111 ▲1275K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 92,348 ▲1156K 99,848 ▲1156K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,085 ▲1037K 89,585 ▲1037K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,126 ▲991K 85,626 ▲991K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,788 ▲709K 61,288 ▲709K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,471 ▲1325K 1,491 ▲1343K
Cập nhật: 16/10/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16606 16875 17454
CAD 18226 18502 19116
CHF 32414 32797 33446
CNY 0 3470 3830
EUR 30064 30338 31374
GBP 34570 34962 35904
HKD 0 3258 3460
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14797 15386
SGD 19786 20068 20592
THB 725 788 841
USD (1,2) 26071 0 0
USD (5,10,20) 26112 0 0
USD (50,100) 26140 26190 26364
Cập nhật: 16/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,157 26,157 26,364
USD(1-2-5) 25,111 - -
USD(10-20) 25,111 - -
EUR 30,286 30,310 31,444
JPY 171.25 171.56 178.66
GBP 34,955 35,050 35,848
AUD 16,891 16,952 17,389
CAD 18,473 18,532 19,046
CHF 32,774 32,876 33,544
SGD 19,958 20,020 20,635
CNY - 3,650 3,745
HKD 3,339 3,349 3,430
KRW 17.2 17.94 19.25
THB 773.34 782.89 832.64
NZD 14,832 14,970 15,308
SEK - 2,742 2,820
DKK - 4,051 4,166
NOK - 2,577 2,650
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,839.54 - 6,546.59
TWD 778.47 - 936.84
SAR - 6,925.36 7,245.82
KWD - 84,051 88,835
Cập nhật: 16/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,182 26,184 26,364
EUR 30,135 30,256 31,339
GBP 34,745 34,885 35,822
HKD 3,324 3,337 3,439
CHF 32,540 32,671 33,556
JPY 171.07 171.76 178.66
AUD 16,751 16,818 17,334
SGD 20,010 20,090 20,601
THB 789 792 827
CAD 18,444 18,518 18,999
NZD 14,846 15,324
KRW 17.81 19.47
Cập nhật: 16/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26160 26160 26364
AUD 16784 16884 17489
CAD 18406 18506 19111
CHF 32656 32686 33573
CNY 0 3660.8 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30250 30280 31303
GBP 34882 34932 36043
HKD 0 3390 0
JPY 170.55 171.05 178.06
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14906 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19943 20073 20804
THB 0 753.6 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14710000 14710000 14910000
SBJ 14000000 14000000 14910000
Cập nhật: 16/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,162 26,212 26,364
USD20 26,162 26,212 26,364
USD1 26,162 26,212 26,364
AUD 16,818 16,918 18,032
EUR 30,364 30,364 31,678
CAD 18,356 18,456 19,767
SGD 20,018 20,168 20,735
JPY 171.25 172.75 177.36
GBP 34,914 35,064 35,832
XAU 14,708,000 0 14,912,000
CNY 0 3,545 0
THB 0 788 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 16/10/2025 19:00