Cải cách luật dầu mỏ ở Nigeria

Tạo cạnh tranh cho “vàng đen”

09:00 | 21/11/2021

430 lượt xem
|
(PetroTimes) - Dù là nhà sản xuất “vàng đen” lớn nhất châu Phi, có trữ lượng lớn nhưng Nigeria vẫn chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư vào lĩnh vực dầu mỏ.
Tạo cạnh tranh cho “vàng đen”
Ảnh minh họa ngành dầu khí Nigeria

Nigeria được biết là một quốc gia hoạt động kém hiệu quả trong lĩnh vực dầu mỏ, chi phí sản xuất đặc biệt cao. Hơn nữa, sau nhiều năm khai thác, những khu vực dầu mỏ bị ô nhiễm và cơ sở hạ tầng đổ nát đang trong tình trạng mất kiểm soát an ninh. Trong 15 năm qua, Chính phủ Nigeria vẫn loay hoay trong việc đưa ra các quy định mới để giải quyết những thách thức và tối đa hóa doanh thu từ dầu mỏ.

Tháng 9-2020, dự luật dầu mỏ mới đã được gửi đến các nghị sĩ. Về lý thuyết, dự luật sẽ được bỏ phiếu trong tháng 4 và nếu được thông qua sẽ được ban hành vào tháng 5-2021.

Luật quy định những gì?

Dự luật nhằm cung cấp một khuôn khổ pháp lý cho ngành công nghiệp dầu mỏ của Nigeria. Nếu được thông qua, nó sẽ tạo ra 3 thay đổi chính.

Thứ nhất là liên quan đến tiền trả định kỳ của các dự án dầu mỏ và chế độ thuế. Gail Anderson - giám đốc nghiên cứu tại Công ty tư vấn năng lượng Wood Mackenzie - nói với AFP: Thuế và tiền trả định kỳ được giảm, nhưng sẽ có nhiều khoản chi phí không còn được khấu trừ thuế.

Thứ hai, các công ty dầu phải thực hiện nghĩa vụ trong việc thành lập các quỹ phát triển vì lợi ích của người dân sống trong các khu vực dầu mỏ. Họ sẽ phải trả 2,5% chi phí cho khu vực khai thác để tài trợ cho quỹ. Nhưng trong trường hợp cơ sở hạ tầng của các công ty dầu mỏ bị cộng đồng phá hoại, họ có thể dùng các quỹ này để sửa chữa - các chuyên gia Nigeria giải thích.

Cuối cùng, dự luật nhằm chuyển đổi Công ty Dầu khí Quốc gia Nigeria (NNPC) thành một công ty thương mại, sẽ cho phép công ty huy động vốn trực tiếp trên thị trường mà không cần thông qua Nhà nước. Dự luật sẽ tạo ra hai cơ quan quản lý mới, với mục tiêu hạn chế quyền hạn của Bộ trưởng Dầu mỏ.

Tạo cạnh tranh cho “vàng đen”

Phản ứng của công ty dầu khí

Các công ty dầu mỏ quốc tế tuyên bố rằng, dự luật sẽ hạn chế các khoản đầu tư tốn kém ngoài khơi - nơi khai thác một nửa sản lượng dầu mỏ của Nigeria. Tại một buổi điều trần công khai, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sản xuất dầu mỏ, đại diện cho Total, Chevron, Exxon Mobil và Shell, đã kêu gọi giảm tiền trả định kỳ cho các dự án khai thác dầu mỏ vùng nước sâu trong 5 năm đầu sản xuất.

Nhiều người cho rằng, sau 60 năm suy thoái môi trường, số tiền các công ty dầu mỏ phải trả cho quỹ phát triển không phải là 2,5% mà phải là 10%.

Về việc tái cấu trúc NNPC thành một công ty thương mại, nhiều nhà phân tích tin rằng, quyền lực sẽ nằm trong tay chính phủ liên bang, nơi luôn có thể lựa chọn các thành viên trong hội đồng quản trị.

Việc xem xét tại Quốc hội hy vọng sẽ giải quyết được những vấn đề này.

Tác động của luật mới

Nếu dự luật được thông qua, vẫn chưa thể nhanh chóng xác định các ảnh hưởng vì luật sẽ cho phép các công ty lựa chọn quyết định hoạt động của họ được điều chỉnh theo các quy định cũ hay mới, cho đến khi giấy phép của họ hết hạn. Tuy nhiên, luật mới có thể làm cho “vàng đen” Nigeria có tính cạnh tranh hơn hay không thì vẫn còn phải xem xét nhiều khía cạnh.

Ông Anderson nói: “Tình hình an ninh vẫn là vấn đề lớn nhất. Các nhóm vũ trang đục đường ống dẫn dầu để ăn cắp, gây ra thảm họa sinh thái và làm gia tăng các vụ bắt cóc đòi tiền chuộc trên đất liền cũng như trên biển. Tình hình mất an ninh thường xuyên này có tác động đáng kể đến giá khai thác, do đó ảnh hưởng đến các chính sách đầu tư”.

Dữ liệu sản lượng dầu sai lệch

Trong phiên điều trần mới đây, Hạ viện Nigeria cho biết: Sai lệch dữ liệu sản lượng dầu thô giữa NNPC và các cơ quan chính phủ có sự khác biệt, trong đó có Bộ Tài nguyên dầu khí (DPR), đã khiến Nigeria thiệt hại 5 tỉ USD. Phiên điều trần được tổ chức nhằm xác định và đề xuất các giải pháp lâu dài đối với những thách thức khác nhau liên quan đến nạn trộm cắp dầu thô.

Nằm trong hoạt động điều tra về hành vi trộm cắp dầu thô trong nước, một ủy ban đặc biệt mới được thành lập đã tiến hành phân tích kỹ càng tất cả các tài liệu do các bên liên quan trong ngành dầu mỏ cung cấp. Peter Akpatason - Chủ tịch ủy ban - phát biểu: “Thật đáng lo ngại khi các bên liên quan được ủy ban yêu cầu cung cấp các bản sao chứng từ cụ thể từ năm 2005-2019 về các khoản thu từ bán dầu, tiền bán quyền khai thác, phân chia sản lượng thì họ trì hoãn rất lâu và che đậy thông tin bằng các khoản giao dịch năm 2003-2009, tức là bỏ qua hầu hết các năm chúng tôi muốn kiểm tra”.

Akpatason quan sát thấy sự chênh lệch lớn trong dữ liệu do các cơ quan chính phủ cung cấp, đặc biệt là DPR và NNPC. Những số liệu sai sót đó có tính đến các số liệu về chế biến dầu thô ngoài nước; mua và bán trực tiếp dầu thô Nigeria; vận chuyển dầu thô xuất khẩu… Các tính toán sau phiên điều tra cho thấy Nigeria đã hao hụt 5 tỉ USD doanh thu, nguyên nhân bắt nguồn từ số liệu sản xuất khác nhau ở một số cấp độ quản lý.

Khi được chất vấn, Chủ tịch NNPC là Mele Kyari cho biết: Công ty đã sẵn sàng chia sẻ với ủy ban các dữ liệu liên quan đến giao dịch của công ty, bao gồm cả những giao dịch chưa được trình lên. Cơ sở dữ liệu giữa NNPC và các cơ quan chính phủ luôn có sai lệch, thậm chí, giữa công ty và các đối tác cũng như thế. Điều đó chẳng có gì đáng chú ý vì thông lệ điển hình trong ngành dầu mỏ phụ thuộc vào dữ liệu phát sinh được kiểm tra mỗi ngày. Môi trường ngành dầu mỏ rất linh động, dữ liệu đăng ký hôm nay chưa chắc giống với hôm qua.

S.Phương

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16486 16754 17332
CAD 18161 18437 19053
CHF 32034 32416 33063
CNY 0 3470 3830
EUR 29882 30155 31183
GBP 33965 34355 35281
HKD 0 3260 3462
JPY 162 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14473 15061
SGD 19725 20006 20528
THB 732 795 849
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26175 26175 26403
AUD 16735 16835 17760
CAD 18359 18459 19474
CHF 32248 32278 33873
CNY 0 3687.1 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 30057 30087 31815
GBP 34221 34271 36037
HKD 0 3390 0
JPY 165.33 165.83 176.35
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14712 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19878 20008 20736
THB 0 761.9 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 09:00