Tăng lãi suất huy động không phải xu hướng chung

19:00 | 14/03/2016

395 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Bùi Quốc Dũng, việc tăng lãi suất huy động gần đây tại các ngân hàng thương mại (NHTM) chủ yếu mang tính chất tạm thời.
tang lai suat huy dong khong phai xu huong chung
Ông Bùi Quốc Dũng.

PV: Ông nghĩ sao về việc một số NHTM đột ngột tăng mạnh lãi suất huy động VND trong thời gian gần đây?

Ông Bùi Quốc Dũng: Thống kê của NHNN cho thấy, 2 tháng đầu năm 2016 có 15 TCTD tăng lãi suất với mức tăng bình quân từ 0,1 - 0,2%/năm, trong khi có 6 TCTD lại giảm, bình quân từ 0,1 - 0,3%/năm. Vì vậy, mức lãi suất huy động hiện tại vẫn cơ bản ổn định so với cuối năm 2015. Cụ thể, mặt bằng bình quân kỳ hạn dưới 6 tháng từ 4,5 - 5,4%/năm, còn kỳ hạn 6 tháng trở lên từ 5,5 - 7,2%/năm. Kết quả đó cho thấy, việc tăng lãi suất huy động không phải xu hướng chung mà chủ yếu mang tính chất tạm thời để dự trù nguồn vốn cho vay ở một số đơn vị, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh những tháng sau Tết. Về cơ bản, việc tăng lãi suất của các ngân hàng này không phải xu hướng chung của toàn thị trường vì trên thực tế, cũng có nhiều ngân hàng thực hiện giảm lãi suất huy động.

PV: Việc một số ít NHTM đẩy lãi suất huy động trung dài hạn đến mức trên 8%/năm phản ánh điều gì, thưa ông?

Ông Bùi Quốc Dũng: Việc xuất hiện một số món gửi ở mức 8%/năm gần như chỉ để gây chú ý và quảng bá. Ngoài ra, qua phân tích chỉ số chi phí vốn/thu nhập, hệ số lợi nhuận biên ròng của các TCTD từ đầu năm đến nay không thay đổi. Như vậy, mặt bằng lãi suất không tác động đến chỉ số này. Nhiều người nói, lãi suất huy động và cho vay tăng nhưng quan trọng là yếu tố “net” ở giữa ổn định thì chẳng có lý do gì để nói lãi suất tăng. Có chăng, chỉ là sự chuyển dịch mặt bằng lãi suất giữa các kỳ hạn mà thôi.

PV: Vậy lý do sâu xa của việc tăng lãi suất huy động gần đây là gì, thưa ông?

Ông Bùi Quốc Dũng: Như phân tích trên thì NHNN chưa thấy các yếu tố thanh khoản và lợi nhuận biên ròng đột biến để gây áp lực lên lãi suất. Thay vào đó, khi cầu tín dụng tăng hầu hết đều xuất hiện tâm lý dự trữ nguồn vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh. Hoạt động quản lý ở đây là ngoài việc kiểm soát thanh khoản để hỗ trợ kịp thời qua thanh kiểm tra (nếu có), yêu cầu TCTD thực hiện nghiêm trần lãi suất, NHNN còn triển khai đồng bộ các giải pháp điều hành bơm hút nhịp nhàng để ổn định thị trường. Ngoài ra, NHNN cũng điều tiết lãi suất thị trường 2 (liên ngân hàng) hợp lý để đóng vai trò neo giữ thanh khoản cho các TCTD.

PV: Hiện tượng tăng lãi suất huy động VND không chỉ ở các kỳ hạn dài mà còn áp dụng cho các kỳ hạn dưới 6 tháng cũng xuất hiện ở một số NHTM, thậm chí có nơi còn trả khoản chênh lãi suất cho khách gửi USD. NHNN có ý kiến gì về việc làm trái qui định này?

Ông Bùi Quốc Dũng: Số liệu thống kê cho thấy, tính đến cuối tháng 2/2016, huy động vốn bằng ngoại tệ giảm gần 4%, còn tín dụng ngoại tệ giảm 5,6% so với cuối năm 2015. Như vậy xét trên yếu tố thanh khoản ngoại tệ, các ngân hàng hiện nay không có áp lực vượt trần lãi suất huy động USD bằng mọi giá. Thời gian qua, để đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD và ổn định thị trường tiền tệ, ngay từ đầu năm, Thống đốc NHNN đã ban hành Công văn số 297/NHNN-TTGSNH ngày 19/1/2016 và Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 23/2/2016, trong đó, yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm túc các quy định và chỉ đạo của NHNN về lãi suất huy động, không áp dụng các biện pháp kỹ thuật để lách, vượt trần lãi suất huy động; nghiêm cấm cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn...

Do vậy, nếu phát hiện các TCTD có hành vi vi phạm về vượt trần lãi suất huy động VND và USD, NHNN sẽ xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, NHNN đề nghị các cơ quan báo chí, tổ chức, cá nhân nếu nắm bắt được các trường hợp vi phạm thì chủ động cung cấp thông tin, tài liệu liên quan, NHNN khẳng định sẽ kiểm tra, xác minh và xử lý theo thẩm quyền.

tang lai suat huy dong khong phai xu huong chung
Tăng lãi suất huy động chỉ mang tính tạm thời.

PV: Trước diễn biến tăng lãi suất huy động nói trên thì đã xuất hiện tâm lý lo ngại về mục tiêu giảm lãi suất để hỗ trợ sản xuất kinh doanh là khó thực hiện. Vậy quan điểm của ông như thế nào?

Ông Bùi Quốc Dũng: Sở dĩ thị trường xuất hiện tâm lý dự phòng bởi những yếu tố vĩ mô như: lạm phát năm nay dự kiến 3%-4%, trong khi năm 2015 lạm phát là 0,6%, như vậy kỳ vọng lạm phát cao hơn năm trước. Bên cạnh đó, dự kiến tăng trưởng kinh tế năm 2016 là 6,7%, cao hơn mức tăng trưởng thực 6,68 của năm 2015. Quan sát 5 năm gần đây, GDP năm sau luôn cao hơn năm trước, điều này sẽ dồn tích thêm nhu cầu vốn.

Trong khi cầu vốn tăng nhưng tiền nhàn rỗi (tiết kiệm) giảm. Năm 2015, số tuyệt đối giữa huy động và cho vay đề cân bằng nhưng tốc độ tăng trưởng của tín dụng lớn hơn tốc độ tăng trưởng huy động (trên 17% so với trên 14%).

Ngoài ra, yếu tố lợi suất trái phiếu Chính phủ cũng tác động khá mạnh lên mặt bằng lãi suất. Ngân sách năm 2016 tiếp tục khó khăn do giá dầu thô giảm (khoảng 50% so với dự toán) nên nhu cầu huy động trái phiếu để bù đặp bội chi tiếp tục lớn ở mức 220 nghìn tỷ đồng, cao hơn 2015. Yếu tố này sẽ tác động lên lợi suất trái phiếu Chính phủ và tác động dây chuyền tới lãi suất trung dài hạn.

Ba yếu tố nói trên sẽ tác động yếu tố tâm lý, khiến các TCTD tăng dự trữ nguồn. Mặc dù hiện tại chưa có gì căng thẳng nhưng chúng lại nuôi dưỡng kỳ vọng của các TCTD, tạo nên phản ứng của thị trường như đã thấy.

Qua thống kê cho thấy, mức lãi suất huy động hiện tại vẫn cơ bản ổn định so với cuối năm 2015. Cụ thể, mặt bằng bình quân kỳ hạn dưới 6 tháng từ 4,5 - 5,4%/năm, còn kỳ hạn 6 tháng trở lên từ 5,5 - 7,2%/năm.

Ngoài ra, xét về cân đối chi phí vốn và thu nhập thì hệ số lợi nhuận biên ròng của các TCTD vẫn ổn định từ đầu năm đến nay. Đây là những điều kiện hỗ trợ, giúp cho mặt bằng lãi suất cho vay của các TCTD tiếp tục ổn định và chưa có sức ép tăng. Mặt bằng lãi suất cho vay hiện vẫn ổn định so với cuối năm 2015. Cụ thể, lãi cho vay kỳ hạn ngắn phổ biến 6 - 9%/năm, trung và dài hạn 9 - 12%/năm. Phân khúc khách hàng tốt, các TCTD áp dụng 5 - 6%/năm. Tính bình quân lãi suất cho vay là 8,85%/năm, ổn định so với cuối năm 2015 và giảm đáng kể so với mức bình quân 10,3%/năm của năm 2014, 12%/năm của năm 2013 và 15%/năm của năm 2012.

Ở góc độ điều hành, NHNN sẽ tiếp tục kiên định điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, thực hiện linh hoạt việc bơm tiền ra/hút tiền về, thông qua nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác để điều tiết thanh khoản hợp lý hỗ trợ các TCTD có điều kiện cung ứng vốn thông suốt cho nền kinh tế. NHNN cũng sẽ điều hành lãi suất liên ngân hàng ở mức phù hợp với tương quan lãi suất thị trường 1 (thị trường các ngân hàng thương mại huy động vốn và cho vay với các tổ chức kinh tế, cá nhân), đảm bảo thanh khoản cho toàn hệ thống, qua đó tạo điều kiện ổn định mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của các TCTD nhưng vẫn kiểm soát được lạm phát và không gây áp lực lên tỷ giá.

Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp như vậy, cùng mục tiêu ổn định và phấn đấu giảm nhẹ mặt bằng lãi suất trung và dài hạn trong năm 2016 là khả thi.

PV: Xin cảm ơn ông!

Phương Linh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 119,200
AVPL/SJC HCM 117,200 119,200
AVPL/SJC ĐN 117,200 119,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 11,100
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 11,090
Cập nhật: 30/06/2025 00:47
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 116.000
TPHCM - SJC 117.200 119.200
Hà Nội - PNJ 113.400 116.000
Hà Nội - SJC 117.200 119.200
Đà Nẵng - PNJ 113.400 116.000
Đà Nẵng - SJC 117.200 119.200
Miền Tây - PNJ 113.400 116.000
Miền Tây - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 119.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 115.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 115.090
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 114.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 114.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 86.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 67.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 48.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 105.620
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 70.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 75.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 78.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 43.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 38.170
Cập nhật: 30/06/2025 00:47
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 11,590
Trang sức 99.9 11,130 11,580
NL 99.99 10,820
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 11,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 11,650
Miếng SJC Thái Bình 11,720 11,920
Miếng SJC Nghệ An 11,720 11,920
Miếng SJC Hà Nội 11,720 11,920
Cập nhật: 30/06/2025 00:47

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 30/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 30/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 30/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 30/06/2025 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 30/06/2025 00:47