"Quy ẩn" 8 năm, bà Đặng Thị Hoàng Yến đang giàu thêm với cổ phiếu

15:10 | 04/12/2020

126 lượt xem
|
Sau phiên tăng trần hôm qua, cổ phiếu ITA của Tân Tạo tiếp tục tăng giá. Đồng thời, cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp cũng đang "hút" tiền đầu tư trong giai đoạn này.
Quy ẩn 8 năm, bà Đặng Thị Hoàng Yến đang giàu thêm với cổ phiếu - 1
Suốt 8 năm vắng bóng, bà Đặng Thị Hoàng Yến bất ngờ xuất hiện rất hiếm hoi tại ĐHĐCĐ trực tuyến của Tân Tạo mới đây

Cổ phiếu ITA trên đường hướng về đỉnh cũ

Phiên giao dịch sáng nay (4/12), cổ phiếu ITA của Công ty cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo tiếp tục tăng thêm 3,83% lên 5.690 đồng. Khớp lệnh hiện đã đạt trên 16 triệu đơn vị.

Trước đó, trong phiên 3/12, mã này đã tăng kịch trần lên 5.480 đồng/cổ phiếu, khớp lệnh lên tới 32,36 triệu đơn vị.

Nhiều nhà đầu tư đang kỳ vọng giá cổ phiếu này sẽ vượt đỉnh 6.000 đồng đã thiết lập hồi trung tuần tháng 6 vừa qua. Đây cũng là một trong những yếu tố hỗ trợ ITA trong thời gian này.

Giá cổ phiếu ITA tăng giá, ngoài cổ đông và nhà đầu mã cổ phiếu này phấn khởi thì người hưởng lợi lớn nhất là bà Đặng Thị Hoàng Yến - cổ đông lớn nhất và cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Tân Tạo.

Trong 8 năm trở lại đây, bà Đặng Thị Hoàng Yến trở nên bí ẩn với truyền thông. Bà đang nắm 54,35 triệu cổ phiếu ITA (chiếm tỷ lệ 5,79% vốn điều lệ). Trong khi đó, các tổ chức liên quan đến bà Yến là Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Tạo và Đại học Tân Tạo cũng đang lần lượt năm 18,07% và 8,84% vốn điều lệ tập đoàn này.

Cổ phiếu ITA đang hưởng lợi bởi "sóng" cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp. Bên cạnh ITA thì sáng nay, MH3, NTC cũng tăng giá mạnh.

Theo bà Hoàng Nguyệt Minh - Phó Giám đốc Bộ phận Đầu tư - Savills Hà Nội, Việt Nam đang hưởng lợi để phát triển bất động sản công nghiệp về lâu dài. Theo dữ liệu của Savills Việt Nam, sức hút của bất động sản công nghiệp Việt Nam trong làn sóng dịch chuyển khỏi Trung Quốc nằm ở 2 yếu tố đáng chú ý.

Thứ nhất, Việt Nam là một trong những nước có chính sách thuế cạnh tranh nhất châu Á. Các công ty có thể hưởng lợi từ các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), miễn thuế nhập khẩu tài sản cố định và miễn tiền thuê đất. Các ưu đãi đáng chú ý bao gồm miễn 20% thuế TNDN trong 2 năm đầu tiên và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo.

Thứ hai, các công ty đa quốc gia sản xuất các sản phẩm có giá trị cao như đồ điện tử với áp lực trong việc cắt giảm chi phí, sẽ có xu hướng dịch sản xuất sang Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển của các chuỗi cung ứng địa phương.

Lạm phát tiền lương có xu hướng tăng sau khi khủng hoảng toàn cầu giảm bớt. Chi phí lao động ở Trung Quốc đã cao gấp 3 lần so với Việt Nam, việc này sẽ thúc đẩy các nhà sản xuất đa quốc gia xem xét chuyển đến các quốc gia Đông Nam Á, nơi có chi phí lao động thấp hơn.

Cũng theo Savills Việt Nam, trong đợt bùng phát dịch đầu tiên, một số nhà sản xuất đa quốc gia đã thông báo kế hoạch mở rộng, di chuyển sản xuất đến Việt Nam, điển hình như các nhà cung cấp linh kiện và lắp ráp cho Apple là Pegatron, Foxconn từ Đài Loan; Sharp, Nintendo và Komatsu từ Nhật Bản; Lenovo từ Hong Kong.

Một thông tin quan trọng khác cũng đang ảnh hưởng tích cực đến nhóm cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp là việc Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các địa phương nghiên cứu, rà soát có điều chỉnh phù hợp nguồn cung đất khu công nghiệp.

Theo các chuyên gia của CBRE, nguồn cung đất công nghiệp sẵn sàng bàn giao ngay tại các khu công nghiệp đang khan hiếm, điểm bất lợi cần phải khắc phục để đón dòng vốn dịch chuyển vào Việt Nam.

Phó tổng thư ký Hiệp hội Bất động sản Việt Nam Nguyễn Văn Đính cho biết, nguồn lực hiện tại chỉ đủ phục vụ các doanh nghiệp FDI trong điều kiện bình thường, nếu có làn sóng đầu tư vào Việt Nam thời gian tới sẽ không đủ đáp ứng.

Cổ phiếu công ty bầu Đức "cháy hàng"

Hôm nay là phiên mà cổ phiếu "sale off" ở phiên 1/12 về đến tài khoản nhà đầu tư, nhiều mã chứng khoán trên thị trường khó tránh khỏi áp lực chốt lời T+3.

Các chỉ số theo đó rung lắc khá mạnh, song VN-Index vẫn đạt được trạng thái tăng. Tạm nghỉ phiên buổi sáng, chỉ số chính của thị trường tăng 0,82 điểm tương ứng 0,08% lên 1020,62 điểm.

Trong khi đó, HNX-Index không chống lại được áp lực giảm, đánh mất 0,68 điểm tương ứng 0,45% còn 151,3 điểm. UPCoM-Index giảm 0,59 điểm tương ứng 0,86% còn 68,43 điểm.

Dưới áp lực chốt lời, trên thị trường sáng nay có 421 mã giảm giá, 42 mã giảm sàn và đang lấn át so với 331 mã tăng, 56 mã tăng trần.

Trong số những mã bị bán mạnh có VIB giảm 3,5% còn 31.250 đồng; TCH giảm 2% còn 19.650 đồng; VPB giảm 1,2% còn 27.650 đồng; VRE giảm 1,1% còn 28.100 đồng.

Bên cạnh đó, VCB cũng giảm 0,9%; BVB giảm 0,8%; GTN giảm 0,8%; HSG giảm 0,8%; LPB giảm 0,8%; MWG giảm 0,7%; VJC giảm 0,7%; VHM giảm 0,6%; MBB giảm 0,5%; TCB giảm 0,4%; VNM giảm 0,4%; HDB giảm 0,2%; VIC giảm nhẹ 0,1%...

Chiều ngược lại, SAB tăng 3,4% lên 201.600 đồng; MSN tăng 2,8% lên 85.700 đồng; CTG tăng 2,5% lên 34.650 đồng; CII tăng 2% lên 18.250 đồng; STB tăng 1,6% lên 15.900 đồng; GVR tăng 1,3% lên 19.000 đồng; GAS tăng 1,2% lên 85.500 đồng.

HVN đã hồi phục trở lại với mức tăng 1% lên 26.400 đồng; BID cũng tăng 0,8%; TPB tăng 0,5%; HBC tăng 0,4%; PLX tăng 0,4%; PNJ tăng 0,3%...

HNG tăng trần mạnh mẽ lên 14.850 đồng, không hề còn dư bán trong khi vẫn đang có dư mua giá trần. HAG cũng tăng mạnh 3,5% lên 4.700 đồng. Khớp lệnh tại HAG rất mạnh, đạt 11,44 triệu cổ phiếu.

Dòng tiền tiếp tục ồ ạt chảy vào thị trường. Chỉ trong buổi sáng nay có 6.378,62 tỷ đồng đổ vào sàn HSX, khối lượng giao dịch đạt 336,05 triệu đơn vị. HNX có 30,06 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 393,07 tỷ đồng và trên UPCoM là 25,98 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 285,63 tỷ đồng.

Diễn biến của thị trường phiên sáng nay không nằm ngoài dự báo của giới phân tích. Theo chuyên gia Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), chuỗi ngày tăng điểm trên thị trường chứng khoán với diễn biến rất tích cực và dòng tiền lan tỏa ra mọi cổ phiếu trên thị trường.

Mặc dù chưa xuất hiện những tín hiệu rủi ro trong ngắn hạn nhưng với mức độ tăng không ngừng nghỉ của thị trường, VDSC cho rằng sẽ có hiện tượng chốt lãi trong phạm vi ngắn hạn. Do vậy các nhà đầu tư cũng nên cân nhắc việc bảo vệ thành quả trong thời gian vừa qua, đồng thời hạn chế giải ngân mới khi mà thị trường chưa có nhịp nghỉ ngơi thích hợp.

Theo Dân trí

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,100 149,100
Hà Nội - PNJ 146,100 149,100
Đà Nẵng - PNJ 146,100 149,100
Miền Tây - PNJ 146,100 149,100
Tây Nguyên - PNJ 146,100 149,100
Đông Nam Bộ - PNJ 146,100 149,100
Cập nhật: 24/11/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,840 15,040
Miếng SJC Nghệ An 14,840 15,040
Miếng SJC Thái Bình 14,840 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
NL 99.99 14,060 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,060 ▲20K
Trang sức 99.9 14,290 ▼10K 14,890 ▼40K
Trang sức 99.99 14,300 ▼10K 14,900 ▼40K
Cập nhật: 24/11/2025 22:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,484 15,042
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,484 15,043
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 146 1,485
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 146 1,486
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,445 1,475
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,154 14,604
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,286 110,786
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,296 10,046
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,634 90,134
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,651 86,151
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,164 61,664
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cập nhật: 24/11/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16479 16747 17323
CAD 18162 18438 19051
CHF 32030 32412 33059
CNY 0 3470 3830
EUR 29788 30061 31089
GBP 33734 34123 35057
HKD 0 3258 3460
JPY 161 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14463 15048
SGD 19669 19950 20470
THB 727 790 843
USD (1,2) 26113 0 0
USD (5,10,20) 26155 0 0
USD (50,100) 26183 26203 26401
Cập nhật: 24/11/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,181 26,181 26,401
USD(1-2-5) 25,134 - -
USD(10-20) 25,134 - -
EUR 29,945 29,969 31,106
JPY 165.17 165.47 172.4
GBP 34,125 34,217 35,012
AUD 16,773 16,834 17,268
CAD 18,398 18,457 18,980
CHF 32,301 32,401 33,063
SGD 19,785 19,847 20,461
CNY - 3,661 3,758
HKD 3,336 3,346 3,428
KRW 16.57 17.28 18.55
THB 775.66 785.24 835.28
NZD 14,496 14,631 14,977
SEK - 2,722 2,801
DKK - 4,005 4,121
NOK - 2,534 2,608
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,962.44 - 6,687.75
TWD 759.69 - 914.07
SAR - 6,929.24 7,253.41
KWD - 83,686 88,492
Cập nhật: 24/11/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,181 26,401
EUR 29,755 29,874 31,004
GBP 33,885 34,021 34,988
HKD 3,319 3,332 3,440
CHF 32,009 32,138 33,025
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,674 16,741 17,277
SGD 19,803 19,883 20,420
THB 790 793 828
CAD 18,358 18,432 18,965
NZD 14,525 15,032
KRW 17.18 18.76
Cập nhật: 24/11/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26109 26109 26401
AUD 16650 16750 17683
CAD 18344 18444 19455
CHF 32270 32300 33886
CNY 0 3676.8 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29962 29992 31717
GBP 34025 34075 35843
HKD 0 3390 0
JPY 164.76 165.26 175.8
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14565 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19824 19954 20676
THB 0 757 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14840000 14840000 15040000
SBJ 13000000 13000000 15040000
Cập nhật: 24/11/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,401
USD20 26,190 26,240 26,401
USD1 26,190 26,240 26,401
AUD 16,726 16,826 17,942
EUR 30,059 30,059 31,171
CAD 18,299 18,399 19,706
SGD 19,861 20,011 20,574
JPY 165.28 166.78 172
GBP 34,116 34,266 35,047
XAU 14,838,000 0 15,042,000
CNY 0 3,559 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 24/11/2025 22:00