"Quy ẩn" 8 năm, bà Đặng Thị Hoàng Yến đang giàu thêm với cổ phiếu

15:10 | 04/12/2020

124 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau phiên tăng trần hôm qua, cổ phiếu ITA của Tân Tạo tiếp tục tăng giá. Đồng thời, cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp cũng đang "hút" tiền đầu tư trong giai đoạn này.
Quy ẩn 8 năm, bà Đặng Thị Hoàng Yến đang giàu thêm với cổ phiếu - 1
Suốt 8 năm vắng bóng, bà Đặng Thị Hoàng Yến bất ngờ xuất hiện rất hiếm hoi tại ĐHĐCĐ trực tuyến của Tân Tạo mới đây

Cổ phiếu ITA trên đường hướng về đỉnh cũ

Phiên giao dịch sáng nay (4/12), cổ phiếu ITA của Công ty cổ phần Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo tiếp tục tăng thêm 3,83% lên 5.690 đồng. Khớp lệnh hiện đã đạt trên 16 triệu đơn vị.

Trước đó, trong phiên 3/12, mã này đã tăng kịch trần lên 5.480 đồng/cổ phiếu, khớp lệnh lên tới 32,36 triệu đơn vị.

Nhiều nhà đầu tư đang kỳ vọng giá cổ phiếu này sẽ vượt đỉnh 6.000 đồng đã thiết lập hồi trung tuần tháng 6 vừa qua. Đây cũng là một trong những yếu tố hỗ trợ ITA trong thời gian này.

Giá cổ phiếu ITA tăng giá, ngoài cổ đông và nhà đầu mã cổ phiếu này phấn khởi thì người hưởng lợi lớn nhất là bà Đặng Thị Hoàng Yến - cổ đông lớn nhất và cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Tân Tạo.

Trong 8 năm trở lại đây, bà Đặng Thị Hoàng Yến trở nên bí ẩn với truyền thông. Bà đang nắm 54,35 triệu cổ phiếu ITA (chiếm tỷ lệ 5,79% vốn điều lệ). Trong khi đó, các tổ chức liên quan đến bà Yến là Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Tạo và Đại học Tân Tạo cũng đang lần lượt năm 18,07% và 8,84% vốn điều lệ tập đoàn này.

Cổ phiếu ITA đang hưởng lợi bởi "sóng" cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp. Bên cạnh ITA thì sáng nay, MH3, NTC cũng tăng giá mạnh.

Theo bà Hoàng Nguyệt Minh - Phó Giám đốc Bộ phận Đầu tư - Savills Hà Nội, Việt Nam đang hưởng lợi để phát triển bất động sản công nghiệp về lâu dài. Theo dữ liệu của Savills Việt Nam, sức hút của bất động sản công nghiệp Việt Nam trong làn sóng dịch chuyển khỏi Trung Quốc nằm ở 2 yếu tố đáng chú ý.

Thứ nhất, Việt Nam là một trong những nước có chính sách thuế cạnh tranh nhất châu Á. Các công ty có thể hưởng lợi từ các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), miễn thuế nhập khẩu tài sản cố định và miễn tiền thuê đất. Các ưu đãi đáng chú ý bao gồm miễn 20% thuế TNDN trong 2 năm đầu tiên và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo.

Thứ hai, các công ty đa quốc gia sản xuất các sản phẩm có giá trị cao như đồ điện tử với áp lực trong việc cắt giảm chi phí, sẽ có xu hướng dịch sản xuất sang Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển của các chuỗi cung ứng địa phương.

Lạm phát tiền lương có xu hướng tăng sau khi khủng hoảng toàn cầu giảm bớt. Chi phí lao động ở Trung Quốc đã cao gấp 3 lần so với Việt Nam, việc này sẽ thúc đẩy các nhà sản xuất đa quốc gia xem xét chuyển đến các quốc gia Đông Nam Á, nơi có chi phí lao động thấp hơn.

Cũng theo Savills Việt Nam, trong đợt bùng phát dịch đầu tiên, một số nhà sản xuất đa quốc gia đã thông báo kế hoạch mở rộng, di chuyển sản xuất đến Việt Nam, điển hình như các nhà cung cấp linh kiện và lắp ráp cho Apple là Pegatron, Foxconn từ Đài Loan; Sharp, Nintendo và Komatsu từ Nhật Bản; Lenovo từ Hong Kong.

Một thông tin quan trọng khác cũng đang ảnh hưởng tích cực đến nhóm cổ phiếu bất động sản khu công nghiệp là việc Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các địa phương nghiên cứu, rà soát có điều chỉnh phù hợp nguồn cung đất khu công nghiệp.

Theo các chuyên gia của CBRE, nguồn cung đất công nghiệp sẵn sàng bàn giao ngay tại các khu công nghiệp đang khan hiếm, điểm bất lợi cần phải khắc phục để đón dòng vốn dịch chuyển vào Việt Nam.

Phó tổng thư ký Hiệp hội Bất động sản Việt Nam Nguyễn Văn Đính cho biết, nguồn lực hiện tại chỉ đủ phục vụ các doanh nghiệp FDI trong điều kiện bình thường, nếu có làn sóng đầu tư vào Việt Nam thời gian tới sẽ không đủ đáp ứng.

Cổ phiếu công ty bầu Đức "cháy hàng"

Hôm nay là phiên mà cổ phiếu "sale off" ở phiên 1/12 về đến tài khoản nhà đầu tư, nhiều mã chứng khoán trên thị trường khó tránh khỏi áp lực chốt lời T+3.

Các chỉ số theo đó rung lắc khá mạnh, song VN-Index vẫn đạt được trạng thái tăng. Tạm nghỉ phiên buổi sáng, chỉ số chính của thị trường tăng 0,82 điểm tương ứng 0,08% lên 1020,62 điểm.

Trong khi đó, HNX-Index không chống lại được áp lực giảm, đánh mất 0,68 điểm tương ứng 0,45% còn 151,3 điểm. UPCoM-Index giảm 0,59 điểm tương ứng 0,86% còn 68,43 điểm.

Dưới áp lực chốt lời, trên thị trường sáng nay có 421 mã giảm giá, 42 mã giảm sàn và đang lấn át so với 331 mã tăng, 56 mã tăng trần.

Trong số những mã bị bán mạnh có VIB giảm 3,5% còn 31.250 đồng; TCH giảm 2% còn 19.650 đồng; VPB giảm 1,2% còn 27.650 đồng; VRE giảm 1,1% còn 28.100 đồng.

Bên cạnh đó, VCB cũng giảm 0,9%; BVB giảm 0,8%; GTN giảm 0,8%; HSG giảm 0,8%; LPB giảm 0,8%; MWG giảm 0,7%; VJC giảm 0,7%; VHM giảm 0,6%; MBB giảm 0,5%; TCB giảm 0,4%; VNM giảm 0,4%; HDB giảm 0,2%; VIC giảm nhẹ 0,1%...

Chiều ngược lại, SAB tăng 3,4% lên 201.600 đồng; MSN tăng 2,8% lên 85.700 đồng; CTG tăng 2,5% lên 34.650 đồng; CII tăng 2% lên 18.250 đồng; STB tăng 1,6% lên 15.900 đồng; GVR tăng 1,3% lên 19.000 đồng; GAS tăng 1,2% lên 85.500 đồng.

HVN đã hồi phục trở lại với mức tăng 1% lên 26.400 đồng; BID cũng tăng 0,8%; TPB tăng 0,5%; HBC tăng 0,4%; PLX tăng 0,4%; PNJ tăng 0,3%...

HNG tăng trần mạnh mẽ lên 14.850 đồng, không hề còn dư bán trong khi vẫn đang có dư mua giá trần. HAG cũng tăng mạnh 3,5% lên 4.700 đồng. Khớp lệnh tại HAG rất mạnh, đạt 11,44 triệu cổ phiếu.

Dòng tiền tiếp tục ồ ạt chảy vào thị trường. Chỉ trong buổi sáng nay có 6.378,62 tỷ đồng đổ vào sàn HSX, khối lượng giao dịch đạt 336,05 triệu đơn vị. HNX có 30,06 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 393,07 tỷ đồng và trên UPCoM là 25,98 triệu cổ phiếu giao dịch tương ứng 285,63 tỷ đồng.

Diễn biến của thị trường phiên sáng nay không nằm ngoài dự báo của giới phân tích. Theo chuyên gia Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), chuỗi ngày tăng điểm trên thị trường chứng khoán với diễn biến rất tích cực và dòng tiền lan tỏa ra mọi cổ phiếu trên thị trường.

Mặc dù chưa xuất hiện những tín hiệu rủi ro trong ngắn hạn nhưng với mức độ tăng không ngừng nghỉ của thị trường, VDSC cho rằng sẽ có hiện tượng chốt lãi trong phạm vi ngắn hạn. Do vậy các nhà đầu tư cũng nên cân nhắc việc bảo vệ thành quả trong thời gian vừa qua, đồng thời hạn chế giải ngân mới khi mà thị trường chưa có nhịp nghỉ ngơi thích hợp.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,700 120,700
AVPL/SJC HCM 118,700 120,700
AVPL/SJC ĐN 118,700 120,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,820 ▼120K 11,240
Nguyên liệu 999 - HN 10,810 ▼120K 11,230
Cập nhật: 02/07/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.500 117.000
TPHCM - SJC 118.700 120.700
Hà Nội - PNJ 114.500 117.000
Hà Nội - SJC 118.700 120.700
Đà Nẵng - PNJ 114.500 117.000
Đà Nẵng - SJC 118.700 120.700
Miền Tây - PNJ 114.500 117.000
Miền Tây - SJC 118.700 120.700
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.700 120.700
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.700 120.700
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.900 116.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.780 116.280
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.070 115.570
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.840 115.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.950 87.450
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.740 68.240
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.070 48.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.220 106.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.650 71.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.310 75.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.800 79.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.300 43.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.060 38.560
Cập nhật: 02/07/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,230 11,680
Trang sức 99.9 11,220 11,670
NL 99.99 10,815 ▼55K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,815 ▼55K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,440 11,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,440 11,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,440 11,740
Miếng SJC Thái Bình 11,870 12,070
Miếng SJC Nghệ An 11,870 12,070
Miếng SJC Hà Nội 11,870 12,070
Cập nhật: 02/07/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16638 16907 17489
CAD 18631 18909 19526
CHF 32347 32730 33380
CNY 0 3570 3690
EUR 30167 30441 31468
GBP 35015 35409 36346
HKD 0 3202 3405
JPY 174 178 185
KRW 0 18 20
NZD 0 15575 16164
SGD 19995 20278 20805
THB 722 785 838
USD (1,2) 25900 0 0
USD (5,10,20) 25940 0 0
USD (50,100) 25969 26003 26323
Cập nhật: 02/07/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,963 25,963 26,323
USD(1-2-5) 24,924 - -
USD(10-20) 24,924 - -
GBP 35,473 35,569 36,466
HKD 3,271 3,281 3,380
CHF 32,615 32,717 33,523
JPY 178.58 178.91 186.49
THB 768.18 777.67 831.99
AUD 16,926 16,987 17,458
CAD 18,839 18,900 19,457
SGD 20,138 20,201 20,881
SEK - 2,704 2,800
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,059 4,200
NOK - 2,545 2,636
CNY - 3,600 3,697
RUB - - -
NZD 15,585 15,730 16,182
KRW 17.76 18.52 19.99
EUR 30,375 30,399 31,636
TWD 813.11 - 983.69
MYR 5,790.17 - 6,535.93
SAR - 6,854.37 7,214.06
KWD - 83,406 88,691
XAU - - -
Cập nhật: 02/07/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,980 25,980 26,320
EUR 30,209 30,330 31,459
GBP 35,252 35,394 36,391
HKD 3,266 3,279 3,384
CHF 32,406 32,536 33,469
JPY 177.65 178.36 185.80
AUD 16,845 16,913 17,455
SGD 20,183 20,264 20,818
THB 785 788 823
CAD 18,818 18,894 19,424
NZD 15,659 16,170
KRW 18.43 20.25
Cập nhật: 02/07/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26320
AUD 16827 16927 17495
CAD 18813 18913 19469
CHF 32605 32635 33522
CNY 0 3614.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30464 30564 31339
GBP 35344 35394 36515
HKD 0 3330 0
JPY 178.13 179.13 185.64
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15692 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20163 20293 21015
THB 0 751.9 0
TWD 0 900 0
XAU 11600000 11600000 12070000
XBJ 10800000 10800000 12070000
Cập nhật: 02/07/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,987 26,037 26,275
USD20 25,987 26,037 26,275
USD1 25,987 26,037 26,275
AUD 16,898 17,048 18,110
EUR 30,557 30,707 31,872
CAD 18,763 18,863 20,176
SGD 20,243 20,393 20,862
JPY 179.22 180.72 185.3
GBP 35,540 35,690 36,456
XAU 11,868,000 0 12,072,000
CNY 0 3,500 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 02/07/2025 21:00