Phải ngăn chặn thép Trung Quốc

14:11 | 22/02/2016

1,223 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng đã đệ đơn đề xuất tăng thuế nhập khẩu lên 45% với phôi thép và 33% với thép dài nhập khẩu vào Việt Nam.
tin nhap 20160222140718
 

Hàng ngàn người châu Âu biểu tình vì thép Trung Quốc

Tờ New York Times đưa tin, ngày 15/02 vừa qua, hàng nghìn công nhân ngành thép đến từ Anh, Pháp và nhiều nước châu Âu đã tập trung biểu tình tại Brussels - Bỉ, nơi đặt trụ sở của Liên Hiệp châu Âu (EU) nhằm đưa ra đề nghị có thêm biện pháp ngăn chặn sự tràn ngập hàng nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc.

Hơn 5.000 người biểu tình xuống đường, yêu cầu xem xét kỹ về việc công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường, sau 15 năm nước này gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Những người làm việc trong ngành thép châu Âu lo ngại, nếu công nhận Trung Quốc là nền kinh tế thị trường thì đây sẽ là cơ hội để các sản phẩm thép với giá thấp xâm nhập vào châu Âu. Điều này cũng gây lo ngại ảnh hưởng tới việc làm của hàng trăm nghìn người lao động trong ngành và gây thiệt hại hàng trăm tỷ euro doanh thu.

Chủ tịch Uỷ ban Điều hành ngành công nghiệp thép châu Âu cho rằng, việc tăng nhập khẩu thép của Trung Quốc sẽ làm suy yếu các nỗ lực toàn cầu để giảm lượng khí thải carbon vì nhiều thép của Trung Quốc được sản xuất với công nghệ sử dụng điện đốt than.

Trước đó, ngày 12/02, Ủy ban châu Âu cũng mở 03 cuộc điều tra chống bán phá giá các sản phẩm thép của Trung Quốc và dự kiến áp thuế mới cho một số sản phẩm thép từ Trung Quốc. Theo bà Elzbieta Bienkowska, Ủy viên Hiệp hội thép châu Âu, có một con số kỷ lục của các biện pháp phòng vệ thương mại đối với thép Trung Quốc được áp dụng tại chỗ và các nhà hoạch định chính sách sẽ áp đặt nhiều hơn nếu thích hợp.

Doanh nghiệp Việt "chia rẽ" vì thép giá rẻ từ Trung Quốc

Cuối năm 2015, có 04 doanh nghiệp lớn của ngành thép gồm: Công ty cổ phần Thép Hoà Phát (HPG), Công ty TNHH MTV Thép Miền Nam, Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên và Công ty cổ phần Thép Việt Ý đã đệ đơn đề xuất tăng thuế nhập khẩu lên 45% với phôi thép và 33% với thép dài nhập khẩu vào Việt Nam.

Nguyên nhân khiến 4 doanh nghiệp đề nghị điều tra áp dụng biện pháp tự vệ là bởi có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu phôi thép và thép dài khiến lợi nhuận sụt giảm mạnh. Theo Hiệp hội Thép, lượng phôi thép nhập khẩu đã tăng từ 466 nghìn tấn năm 2012 lên 1,5 triệu tấn vào năm 2015. Thép dài nhập khẩu đã tăng từ 387 nghìn tấn năm 2012 lên 1,2 triệu tấn năm 2015.

Ngày 25/12/2015, Bộ Công Thương đã tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ với mặt hàng phôi thép và thép dài nhập khẩu.

Tuy nhiên, sau khi Bộ Công Thương ra quyết định về việc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, vừa qua, 6 doanh nghiệp ngành thép đã cùng ký tên trong một kiến nghị gửi tới Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính đề nghị không áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng phôi thép nhập khẩu.

Dẫn lời ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép (VSA) trên Báo Tuổi trẻ điện tử khi bình luận về động thái phản đối này của một số doanh nghiệp thì, các doanh nghiệp này đều làm cán thép chứ không sản xuất thép từ đầu nguồn, tức họ không làm phôi hoặc đã dừng sản xuất phôi để chuyển sang nhập khẩu. Do đó, nếu Việt Nam áp biện pháp tự vệ, các doanh nghiệp này sẽ không nhập được phôi giá rẻ nữa.

Cũng theo ông Sưa, việc đưa lý do giá thép trong nước sẽ tăng nếu Việt Nam áp dụng các biện pháp tự vệ cũng không thật sự thuyết phục bởi khi thép thế giới giảm, giá thép trong nước cũng giảm theo. Trong khi đó, nếu không áp dụng biện pháp tự vệ, có thể giá thép trong nước sẽ thấp hơn nhưng chỉ ngắn hạn. Còn về lâu dài, khi các doanh nghiệp thép Việt Nam sẽ “chết”, ai dám khẳng định thép nhập khẩu không tăng giá để bù lại?

Chậm tự vệ, về lâu dài ngành thép Việt Nam sẽ thiệt hại lớn

Dẫn lời Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải trên Báo điện tử VOV, đến nay, Việt Nam vẫn chưa sử dụng những công cụ mà Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cho phép để có thể ngăn chặn được dòng thép nhập khẩu này. Trong khi với hiện tượng này, ViệtNam hoàn toàn có thể được phép áp dụng các biện pháp để ngăn chặn khi có 2 biểu hiện: Việc nhập khẩu gia tăng đột biến; nhập khẩu gia tăng đột biến đã trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình sản xuất trong nước.

Ông Hải cho biết, sở dĩ Việt Nam chưa áp dụng các biện pháp ngăn chặn là do hiện nay ngành thép đang tồn tại nhiều đối tượng: Có đối tượng chỉ sản xuất phôi thép, có đối tượng cần nhập khẩu thép hoặc sử dụng phôi thép đó để luyện, cán ra những sản phẩm khác nhau, thậm chí có đối tượng chỉ đơn thuần làm thương mại đối với mặt hàng thép nhập khẩu giá rẻ và bán ra giá cao.

Ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước, ông Hải cho rằng, tới đây Bộ Công Thương  sẽ có những nhận thức đầy đủ về sự việc và quyết định trong trường hợp nào, thời gian nào có thể can thiệp và can thiệp bằng hình thức nào để có thể đáp ứng được những lợi ích tối đa cũng như giảm thiểu đa số những khó khăn chung cho cộng đồng doanh nghiệp.

Trong khi đó, đứng ở phía cơ quan nghiên cứu về kinh tế vĩ mô, bà Nguyễn Minh Thảo, Phó ban môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương), cũng cảnh báo khi thuế giảm nhờ hội nhập, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng như FDI đã không sản xuất nữa mà chủ yếu đi nhập khẩu rồi bán, hoặc chỉ gia công chút ít.

“Nếu cứ để như vậy, nguy cơ Việt nam lệ thuộc tới hai lần, thứ nhất là sản xuất trong nước bị bóp chết, mất công nghệ, mất việc làm, phải nhập khẩu. Thứ hai là từ việc phải nhập khẩu sẽ tiến tới lệ thuộc kinh tế”, bà Thảo nói,

Bà Thảo cũng đề nghị, cần nghiên cứu các nước đã áp dụng biện pháp phòng vệ với thép Trung Quốc để tránh những thiệt hại cho ngành thép nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Dẫn lời ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ tịch VSA, trên Báo Tuổi trẻ điện tử, cũng cho biết vừa ký văn bản trả lời sáu doanh nghiệp phản đối việc áp dụng biện pháp tự vệ theo hướng VSA ủng hộ việc phát triển ngành thép đồng bộ, khép kín và vững mạnh thật sự “chứ không phải ngành thép đi gia công”.

Việc áp dụng biện pháp tự vệ, theo ông Dũng, là phù hợp thông lệ quốc tế, bảo vệ lợi ích chung của toàn ngành chứ không riêng cho doanh nghiệp nào./.

Tạp chí Kinh tế và dự báo

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
AVPL/SJC HCM 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 117,200 ▼500K 119,200 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,760 ▼50K 11,100 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,750 ▼50K 11,090 ▼50K
Cập nhật: 28/06/2025 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
TPHCM - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Hà Nội - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Hà Nội - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Đà Nẵng - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Miền Tây - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Miền Tây - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - SJC 117.200 ▼500K 119.200 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.400 ▼300K 116.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.700 ▼300K 115.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.590 ▼300K 115.090 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.880 ▼300K 114.380 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.650 ▼300K 114.150 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.050 ▼230K 86.550 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.040 ▼180K 67.540 ▼180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.570 ▼130K 48.070 ▼130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.120 ▼280K 105.620 ▼280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.920 ▼190K 70.420 ▼190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.530 ▼200K 75.030 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.990 ▼200K 78.490 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.850 ▼110K 43.350 ▼110K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.670 ▼100K 38.170 ▼100K
Cập nhật: 28/06/2025 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,140 ▼30K 11,590 ▼30K
Trang sức 99.9 11,130 ▼30K 11,580 ▼30K
NL 99.99 10,820 ▼30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,350 ▼30K 11,650 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 11,720 ▼50K 11,920 ▼50K
Cập nhật: 28/06/2025 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16510 16778 17354
CAD 18536 18813 19432
CHF 32001 32383 33032
CNY 0 3570 3690
EUR 29944 30217 31250
GBP 34978 35372 36310
HKD 0 3193 3396
JPY 173 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15492 16077
SGD 19904 20187 20716
THB 715 778 835
USD (1,2) 25828 0 0
USD (5,10,20) 25868 0 0
USD (50,100) 25896 25930 26275
Cập nhật: 28/06/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,910 25,910 26,270
USD(1-2-5) 24,874 - -
USD(10-20) 24,874 - -
GBP 35,385 35,481 36,372
HKD 3,265 3,274 3,374
CHF 32,207 32,307 33,117
JPY 177.47 177.79 185.33
THB 763.79 773.22 827
AUD 16,814 16,875 17,346
CAD 18,819 18,879 19,433
SGD 20,081 20,144 20,819
SEK - 2,695 2,788
LAK - 0.92 1.28
DKK - 4,022 4,161
NOK - 2,541 2,632
CNY - 3,590 3,688
RUB - - -
NZD 15,482 15,625 16,084
KRW 17.77 18.53 20
EUR 30,094 30,119 31,342
TWD 816.87 - 988.28
MYR 5,766.06 - 6,505.79
SAR - 6,839.83 7,198.96
KWD - 83,097 88,350
XAU - - -
Cập nhật: 28/06/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,925 25,925 26,265
EUR 29,940 30,060 31,184
GBP 35,235 35,377 36,374
HKD 3,259 3,272 3,377
CHF 32,000 32,129 33,067
JPY 176.72 177.43 184.81
AUD 16,784 16,851 17,387
SGD 20,131 20,212 20,765
THB 781 784 819
CAD 18,798 18,873 19,403
NZD 15,596 16,106
KRW 18.41 20.29
Cập nhật: 28/06/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25910 25910 26270
AUD 16715 16815 17381
CAD 18759 18859 19415
CHF 32282 32312 33202
CNY 0 3604 0
CZK 0 1170 0
DKK 0 4060 0
EUR 30209 30309 31084
GBP 35361 35411 36521
HKD 0 3330 0
JPY 177.05 178.05 184.62
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6335 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 15626 0
PHP 0 430 0
SEK 0 2730 0
SGD 20076 20206 20936
THB 0 745.1 0
TWD 0 880 0
XAU 11500000 11500000 12000000
XBJ 10500000 10500000 12000000
Cập nhật: 28/06/2025 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,920 25,970 26,250
USD20 25,920 25,970 26,250
USD1 25,920 25,970 26,250
AUD 16,768 16,918 17,992
EUR 30,238 30,388 31,575
CAD 18,708 18,808 20,125
SGD 20,150 20,300 20,777
JPY 177.69 179.19 183.84
GBP 35,429 35,579 36,378
XAU 11,768,000 0 11,972,000
CNY 0 3,489 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 28/06/2025 21:00