Kỷ niệm 47 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975 - 30/4/2022

Người phụ nữ kiên cường, chung thủy

07:00 | 23/04/2022

2,179 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Đó là bà Trần Thị Điểm, quê Quảng Nam, cán bộ hưu trí đang sống cùng gia đình tại Khu tập thể cán bộ Trung ương, số 261 Thụy Khuê, Hà Nội.
Người phụ nữ kiên cường, chung thủy
Bà Trần Thị Điểm

Bà Trần Thị Điểm là con một gia đình nông dân, có truyền thống yêu nước. Sau cách mạng tháng Tám 1945, bà được đi học văn hóa. Từ năm học lớp 6 ở trường Tam Kỳ II, bà đã tham gia Đoàn Thanh niên học sinh xung phong, đi tuyên truyền thu thuế nông nghiệp, đóng đảm phụ kháng chiến ở một số xã, huyện trong tỉnh Quảng Nam, vận động thanh niên đi tòng quân tham gia giết giặc và dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa cho nhân dân.

Năm 1953, bà Điểm nghỉ học, giúp bố mẹ làm ruộng, tham gia công tác địa phương, phụ trách thiếu nhi và là thành viên trong đoàn cán bộ xây dựng tổ chức phụ nữ thị xã Tam Kỳ. Năm 1954, bà lấy chồng là cán bộ công tác ở huyện ủy Tam Kỳ.

Sau Hiệp định Giơnevơ đình chiến ở Việt Nam năm 1954, ngụy quyền Sài Gòn ráo riết rà soát, bắt bớ, giam cầm cán bộ cách mạng mà chúng gọi là Việt cộng. Chúng bắt, giam chồng bà tại nhà lao quận Tam Kỳ. Không tìm được chứng cứ kết tội chồng bà là Việt cộng, chúng buộc phải thả ra, nhằm mua chuộc cán bộ ta chiêu hồi.

Để chuẩn bị lực lượng cho miền Nam sau này và bảo vệ cán bộ, đầu năm 1955, chồng bà được tập kết ra Bắc. Bà Điểm ở lại quê hương, vừa làm ruộng và buôn bán kiếm sống, vừa tham gia cùng bà con địa phương đấu tranh chính trị, vạch mặt bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm phá hoại hiệp định Giơnevơ, lên án chúng bắt bớ, đàn áp dân lành. Bà Điểm và một vài anh em cơ sở bị bọn an ninh bắt. Chúng bắt bà viết tường trình việc làm chống chính quyền và khai báo cơ sở bí mật, rồi giam bà vào nhà lao quận Tam Kỳ. Nhà lao rộng khoảng 30m2 nhưng chúng nhốt tới 50 người, cả đàn ông lẫn đàn bà. Tối ngủ mọi người phải nằm nghiêng. Lúc đó bà đang mang thai 7 tháng.

Trước sự lên án của nhân dân địa phương về việc vô cớ bắt bà Điểm, bọn an ninh buộc phải trả tự do cho bà. Tháng 9/1955, bà sinh con trai trong thiếu thốn cùng cực, không có gạo ăn. Mẹ chồng bà phải cắt lúa chưa chín đem về rang, giã nấu cơm cho bà.

Sau năm 1956-1957, ngụy quân, ngụy quyền tỉnh Quảng Nam tăng cường phá hoại việc thực hiện Hiệp định Giơnevơ. Chúng ra sức truy tìm, lùng sục, bắt bớ cán bộ cách mạng, đàn áp dân lành. Chúng còn lập ra nhiều đồn bốt, ngăn chặn hoạt động của ta.

Trong tình hình ấy, bà Điểm kết hợp việc đi lại buôn bán kiếm sống tại các huyện Khánh Thọ, Tam Dân, Suối Đá, Cẩm Khê trong tỉnh Quảng Nam, với việc làm liên lạc, bí mật chuyển công văn giấy tờ của cấp trên tới cơ sở và thư của cán bộ tập kết gửi về gia đình. Năm 1957, dù phải chịu tang cha chồng, rồi cha đẻ, nhưng bà vẫn nén đau thương hoàn thành nhiệm vụ trên giao.

Nghi bà là Việt cộng, ngụy quyền thị xã Tam Kỳ, gọi lên trụ sở, hỏi: "Chị đi đây, đi đó nhiều để móc nối Việt cộng phải không? Liệu hồn đấy!". Bà khảng khái nói: "Đói đầu gối phải bò, đàn bà con dại không làm ruộng được phải đi buôn gánh kiếm ăn chứ sướng chi. Việt cộng đâu còn mà móc nối".

Người phụ nữ kiên cường, chung thủy

Một buổi tối đầu tháng 7/1959, bà Điểm vừa ở Cẩm Khê về nhà mẹ chồng thì mấy tên ngụy quyền quận Tam Kỳ ập đến bắt lên quận tra hỏi, dọa nạt, bắt khai cơ sở cách mạng. Không khai thác được gì, chúng thả bà ra. Hai hôm sau, bà đang ở Tam Kỳ, thì nửa đêm, 5 tên an ninh đến bắt bà đưa lên nhà giam quận. Chẳng nói chẳng rằng, chúng trói hai tay bà quặt ra sau lưng, bắt đứng lên bàn, lấy dây chão buộc vào hai tay, rút lên xà nhà. Rồi chúng khiêng bàn đi. Bà bị treo lơ lửng giữa nhà, hai khớp vai bị thân người kéo xuống đau nhói. Uất ức và căm phẫn tột độ, bà dồn sức nhoài người, dùng hai chân quắp vào cổ một tên. Tên này tức tối lấy thanh gỗ đánh bà tới tấp đến sáng. Toàn thân bà nhiều chỗ thâm tím, rỉ máu, đau đớn nhức nhối.

Sáng ra, bọn an ninh lôi bà Điềm lên xe, đưa nhốt vào xà lim, chỉ có một lỗ thông hơi nhỏ bằng bàn tay. Suốt 20 ngày, mỗi ngày chỉ cho bà ăn hai vắt cơm với muối và ca nước lã để uống.

Thực hiện Luật 10-1959 của Ngô Đình Diệm, ngụy quyền, ngụy quân ở Quảng Nam gia tăng bắt người nghi là Việt cộng hoặc có mối liên hệ với gia đình cán bộ cũ, có người đi tập kết, trong đó có cả ông bà già và trẻ em 12, 13 tuổi. Các nhà giam ở Tam Kỳ chật ních. Những người bị bắt liên tục bị đánh đập dã man, hoặc bị giết, thả xuống sông, xuống biển…

Sau 3 tháng giam cầm, tra tấn nhiều lần, bà Điểm một mực kêu oan, ngụy quyền Tam Kỳ phải thả bà và bắt mỗi ngày lên trụ sở xã trình diện một lần. Chúng còn buộc bà tập trung học cải huấn, đứng sám hối. Có thời gian chúng bắt bà đem gạo, đem giường đến ăn ngủ ở trại cải huấn cả tháng trời…

Để tránh cho bà không rơi vào tay ngụy quân ngụy quyền, có điều kiện nuôi con khôn lớn, chờ ngày thống nhất đất nước sum họp với chồng, tổ chức của ta ở Tam Kỳ mật báo cho bà tìm cách vào Sài Gòn làm ăn và tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Biết vào Sài Gòn xa quê hương, gia đình, đồng chí, một mình nuôi nấng, chăm sóc con là gian khổ, nhưng bà quyết tâm lên đường.

Tới Sài Gòn, bà được tổ chức giới thiệu đến ở nhờ một gia đình thợ dệt, để vừa học nghề, làm việc kiếm sống vừa tiếp xúc với công nhân và nhân dân, bí mật tuyên truyền về đường lối tiến hành vũ trang cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bà còn động viên mọi người tham gia đấu tranh chính trị, chống lại sự đàn áp, tù đày của ngụy quyền Sài Gòn và phổ biến bài hát "Giải phóng miền Nam" tới một số công nhân.

Trong 2 năm ở Sài Gòn, bà Điểm chịu khó học nghề dệt vải. Tay nghề của bà dần dần khá lên, thu nhập ngày càng cao, tự túc được lương thực, thực phẩm, quần áo của hai mẹ con và hoàn thành tốt nhiệm vụ tổ chức giao phó.

Cuối năm 1962, một số cơ sở của ta có người Quảng Nam hoạt động ở Sài Gòn bị lộ. Ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn ráo riết lùng sục, bắt bớ, tổ chức quyết định chuyển bà Điểm về Rạch Giá (nay là Kiên Giang) công tác.

Rạch Giá là tỉnh có một số vùng trong các huyện được giải phóng sau năm 1960, nhưng đời sống nhân dân còn nghèo, trẻ em và nhiều người lớn chưa biết chữ hoặc biết sơ sơ, hiểu biết về đường lối cách mạng vẫn hạn chế. Biết bà Điểm đã học hết lớp 7 phổ thông tại Tam Kỳ, tổ chức tỉnh Rạch Giá phân công bà về Ban Tuyên huấn huyện An Biên, làm trưởng ngành giáo dục, cùng đồng nghiệp tiếp tổ chức lớp và tham gia giảng dạy văn hóa cho thiếu niên, dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa, bồi dưỡng trình độ chính trị cho thanh niên, nhân dân và cán bộ địa phương.

Hồi ở quê nhà Quảng Nam, bà Điểm chỉ biết Rạch Giá là một tỉnh miền Tây Nam Bộ gạo trắng, nước trong, nhiều tôm cá. Nay bà đứng trước vùng đồng ruộng, rừng, nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, nhà dân thưa thớt, đi lại khó khăn, cách sống và sinh hoạt của cán bộ, nhân dân nơi đây khác xa với Quảng Nam, nhưng bà không dao động mà lập tức liên hệ để ở nhờ nhà dân, làm việc với dân và tiến hành công tác. Bà còn xin đất trồng lúa, học cách giăng câu để kiếm tôm cá, tự túc một phần lương thực, thực phẩm hằng ngày.

Rồi bà cùng đồng nghiệp vận động nhân dân địa phương ủng hộ đất đai, nguyên vật liệu xây dựng trường, làm hầm trú ẩn và cho con em đi học.

Trong điều kiện thiếu tài liệu giảng dạy, bà tham khảo sách giáo khoa cũ để biên soạn giáo án các lớp học. Bà giảng dạy tận tình, giúp học sinh nhanh hiểu và nắm vững bài. Nhiều ngày, máy bay Mỹ quần đảo, bắn phá gần trường, bà vẫn bình tĩnh đứng lớp. Có ngày, để bảo đảm an toàn cho học sinh, bà tổ chức dạy vào ban đêm. Vừa dạy phổ thông, bà vừa dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa cho một số người dân và cán bộ cơ sở. Biết kiến thức văn hóa, khoa học, chính trị của mình còn hạn chế, bà chịu khó theo học các lớp tập huấn nghiệp vụ của tỉnh ,của Khu 9, đi tìm sách giáo khoa cấp 3 để tự học. Đến năm 1968, bà đã có trình độ tương đương lớp 10 để nâng cao trình độ giảng dạy.

Bà còn tham gia đầy đủ các lớp tập huấn chính trị của huyện, tỉnh và chịu khó nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Phát thanh Giải phóng để nắm đường lối, chủ trương của Đảng, của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, truyền đạt tới nhân dân địa phương vào những ngày kỷ niệm lớn của đất nước, của miền Nam…

12 năm công tác ở Rạch Giá, bà đã góp phần cùng đồng nghiệp dạy văn hóa cho hàng ngàn học sinh, nhân dân, cán bộ cán bộ địa phương, giúp mọi người có kiến thức nhiều mặt, vận dụng vào cuộc sống và tham gia công tác xã hội, tòng quân giết giặc. Nhiều người đã trở thành cán bộ nòng cốt ở thôn xã. Bà còn động viên con trai là Đinh Hồng Thái mới hơn 10 tuổi, buổi tối đi giăng câu kiếm cá về phục vụ nhà bếp của lớp học hàng chục người.

Được mẹ và cô bác dạy dỗ, năm 1967, con trai bà tròn 12 tuổi, được tổ chức chọn đi học trường Lý Tự Trọng của Khu 9. Năm 14 tuổi, Thái ra trường, về công tác tại cơ quan điện báo khu…

Sau Hiệp định Paris về Việt Nam 27/1/1973, việc thông tin, đi lại giữa hai miền Nam - Bắc thuận lợi hơn trước. Bà Điểm được Tỉnh ủy Rạch Giá bố trí theo đường dây qua vùng ngụy quyền, lên Tây Ninh nhập đoàn ra Bắc chữa bệnh và có mặt ở Hà Nội ngày 20/1/1974. Gặp lại người chồng thân yêu sau 19 năm xa cách và cũng gặp lại anh con trai được Khu 9 đưa ra Bắc học tập và sum họp với bố năm 1972, bà mừng mừng tủi tủi. Bà muốn nói với chồng rằng: "Anh ơi, em đã thực hiện được lời hứa với anh, ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động cách mạng, nuôi con và chung thủy đợi anh", nhưng không nói nên lời.

... Để giữ được sự chung thủy với chồng, bà Điểm đã trải qua nhiều tháng năm thử thách với sự cô đơn và tế nhị khước từ những lời ngọt ngào, chân tình của đồng chí, đồng đội bày tỏ tình cảm đối với bà. Bà kể, những ngày hoạt động ở Quảng Nam và vào Sài Gòn, do mới xa chồng nên nhớ ông da diết. Hoạt động lúc ấy chủ yếu là tiếp xúc với dân, mặt khác, ngụy quân, ngụy quyền luôn theo dõi, nên bà không có phút giây nào nghĩ tới tình cảm riêng tư.

Khi về Rạch Giá, được gặp nhiều đồng chí, đồng đội cùng công tác, có anh cũng xa gia đình như bà, dáng vóc chững chạc, kiến thức văn hóa, chính trị khá cao, đôi lúc bà cũng cảm thấy rung động. Nhất là thời gian con trai bà đi học ở Cà Mau, sống một mình, có khoảnh khắc bà lóe lên mong muốn được tựa vào một bờ vai... Nhưng rồi bà tự nhủ, nghĩ như vậy là thiếu chung thủy với chồng và kiên quyết gạt đi.

Năm 1969, có anh cán bộ quê Hà Bắc (cũ) được vào Rạch Giá công tác, cùng cảnh cô đơn, xa gia đình, quê hương, cùng sở thích đọc sách, anh nhiều lần đến thăm, động viên bà. Rồi anh làm thơ tặng bà, ngỏ ý muốn xây đắp tình cảm giữa hai người. Nhận thơ, bà ứa nước mắt thương anh, thương mình, nhưng nghĩ tới chồng ở miền Bắc, bà lấy giấy bút viết thư trả lời, đề nghị anh hãy để bà giữ trọn tình cảm, trách nhiệm với chồng, con và hoàn thành nhiệm vụ trên giao...

Sau ngày sum họp với chồng con, bà Điểm được tổ chức bố trí đi chữa bệnh, an dưỡng. Rồi bà được điều về làm việc tại Văn phòng Phủ Thủ tướng (nay là Văn phòng Chính phủ), và chuyển sang Ban Thi đua khen thưởng Trung ương…

Bà Điểm vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huy hiệu 40 năm, 50 năm và 55 năm tuổi Đảng.

Duy Thủy