Kẽ hở trong đầu tư điện mặt trời

11:52 | 08/04/2021

1,793 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Với nhiều chính sách ưu đãi về thuế và giá mua điện, theo thống kê chưa đầy đủ cả nước hiện có hàng nghìn dự án điện mặt trời áp mái lớn nhỏ. Tuy nhiên, đã có không ít dự án núp bóng nông nghiệp để hưởng lợi trong đầu tư điện mặt trời.

Dự án núp bóng trang trại

Trong hai năm gần tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai… đã có hàng trăm dự án mặc dù được đăng ký làm trang trại trồng nấm, trồng dược liệu, chăn nuôi gia súc, gia cầm theo mô hình công nghệ cao. Tuy nhiên, đến hiện tại có rất ít dự án triển khai nuôi trồng các loại cây trồng, vật nuôi như giấy phép mà chủ yếu doanh nghiệp tập trung đầu tư xây dựng, lắp đặt các tấm thu năng lượng mặt trời để sản xuất điện nhằm hưởng các ưu đãi về thuế và tiền thuê đất, cũng như kỳ vọng thu lợi từ giá bán điện ưu đãi được tính toán là cao hơn hẳn so với suất đầu tư nông nghiệp.

Đầu tư, lắp đặt điện mặt trời tại các trang trại
Đầu tư, lắp đặt điện mặt trời tại các trang trại

Theo số liệu thống kê của tỉnh Gia Lai, hiện nay có khoảng trên 3.200 hệ thống điện mặt trời được xây dựng. Trong đó có khoảng 400 hệ thống áp trên mái của các công trình công nghiệp, trang trại nông nghiệp với tổng công suất trên 400 MWp. Ngành điện lực tại Đắk Lắk và Đắk Nông tính toán, nếu tính chung cả khu vực Tây Nguyên, đến nay số lượng dự án điện mặt trời đã tăng gấp 5 lần so với năm 2019.

Trong đó có khoảng 40% công suất hòa lưới điện đến từ các trang trại nông nghiệp. Với tốc độ phát triển điện mặt trời áp mái ồ ạt trên đất nông nghiệp như vậy, nhiều địa phương dự báo, chỉ trong vòng 5 năm tới, diện tích đất trồng trọt và đất rừng trong vòng sẽ thu hẹp ít nhất 23%.

Tình trạng dùng vỏ bọc trang trại nông nghiệp để đầu tư điện mặt trời áp mái như kể trên không chỉ diễn ra ở khu vực Tây Nguyên mà hiện nay đã trở thành một thực tế phổ biến tại nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tại miền Trung, hàng chục dự án núp bóng trang trại nông nghiệp để làm điện mặt trời đã đua nhau mọc lên ở Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Ninh Thuận, Bình Thuận…

Tại phía Nam, các tỉnh như Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh… thời gian gần đây cũng bắt đầu nhận thấy nhiều dự án điện mặt trời được xây dựng trên mái của các trang trại chăn nuôi và trồng cây dược liệu. Một số địa phương (như Đồng Phú - Bình Phước) thậm chí còn coi việc cho doanh nghiệp thuê đất nông nghiệp (trồng điều, trồng hồ tiêu) để làm dự án điện mặt trời là một hướng đi mới của người dân vì kỳ vọng lợi nhuận sẽ cao hơn so với tự sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ.

Biến tướng và lách luật

Điều này cho thấy những chính sách ưu đãi đối với điện mặt trời áp mái đã bắt đầu phản tác dụng, phát sinh những biến tướng để trục lợi. Bởi theo quy định, các công trình điện mặt trời trên 1 MWp (điện đấu lưới) phải được Bộ Công thương phê duyệt. Vì vậy, các nhà đầu tư này đã chia nhỏ dự án (dưới 1 MWp) nhằm lách luật. Thậm chí một số nơi đã bắt đầu để lại hệ lụy đáng kể về môi trường và tác động tiêu cực đến diện tích đất rừng, đất sản xuất nông nghiệp.

Thực tế hiện nay, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo đã xây dựng xong Dự thảo Quyết định liên quan đến cơ chế giá cho điện mặt trời áp mái để thay thế cho Quyết định 13/2020 (đã hết hiệu lực từ 31/12/2020). Trong đó, mức giá mua điện áp mái dự kiến giảm từ 8,38 cent/kWh xuống còn 5,2-5,8 cent/kWh tùy theo quy mô dự án.

Ngay khi có dự thảo này, EVN đã dừng tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu về đấu nối và ký hợp đồng mua bán điện đối với các công trình điện mặt trời mái nhà phát triển sau ngày 31/12/2020. Trong các tháng đầu năm 2021, ở một số địa phương đã xuất hiện tình trạng các nhà đầu tư dự án điện mặt trời áp mái bỏ trốn hoặc không tiếp tục ký hợp thuê đất của người dân, mặc dù trước đó đã thuyết phục người dân chặt bỏ cây trồng để lấy đất cho thuê làm trang trại kết hợp dự án điện.

Mặc dù những trường hợp này chỉ diễn ra đơn lẻ ở một số khu vực vùng sâu, vùng xa và xảy ra ở các dự án nhỏ (công suất dưới 1 MWp), nhưng những hệ lụy mang lại đối với các địa phương là khá lớn. Đặc biệt có thể ảnh hưởng đến sinh kế của hàng nghìn hộ dân nghèo vì đã lỡ chặt bỏ cây công nghiệp dài ngày để chạy theo các dự án điện áp mái do các doanh nghiệp đầu tư ồ ạt.

Ở góc độ cân đối nguồn cung, hiện nay Bộ Công thương đã có văn bản trình Chính phủ và Quốc hội đề xuất về việc cắt giảm các nhà máy năng lượng tái tạo vì lý do hệ thống điện quốc gia thừa nguồn và lưới điện quá tải cục bộ. Trong những tháng gần đây, ở khu vực các tỉnh phía Nam như Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, An Giang, Long An… sản lượng điện bị cắt giảm từ nguồn điện áp mái cũng khá lớn.

Theo EVN khả năng trong năm nay tập đoàn này sẽ cắt giảm 1,3 tỷ KWh năng lượng tái tạo. Điều này sẽ làm gia tăng rủi ro cho các ngân hàng và nhà đầu tư đang nắm giữ trái phiếu của các dự án điện. Ngoài ra, đối với các dự án nhỏ nằm ngoài quy hoạch, không có hợp đồng đấu nối vào lưới điện quốc gia hoặc sử dụng đòn bẩy tài chính cao thì nguy cơ vỡ nợ càng lớn hơn.

Chính vì vậy, thời điểm này việc rà soát, đánh giá các dự án điện mặt trời áp mái là việc làm mà các địa phương cần nhanh chóng thực hiện để ngăn chặn triệt để làn sóng ồ ạt đầu tư điện mặt trời, có thể dẫn đến hệ lụy tiêu cực đối với sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của nhiều vùng kinh tế trọng điểm.

Thống kê của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho thấy, đến cuối năm 2020 cả nước có tới hơn 101.000 công trình điện mặt trời áp mái được đấu nối vào hệ thống điện với tổng công suất lắp đặt gần 9.300 MWp; trong đó, phần lớn các dự án có công suất dưới 1 MWp là các dự án thực hiện theo mô hình trang trại nông nghiệp.

Minh Châu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 13:00