Ì ạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

09:57 | 29/11/2023

314 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Con số và thông tin về việc doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu trong năm 2023 vừa được Bộ Tài chính công bố, ghi nhận gần như tiến độ “giậm chân tại chỗ”. Bộ trưởng Hồ Đức Phớc từng thẳng thắn trước Quốc hội, nguyên nhân cơ bản của sự ì ạch này liên quan đến giá trị các khu đất “vàng”.
Ì ạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Theo báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính, tính đến ngày 24/11/2023, đã có 60 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp theo Quyết định số 360/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Năm 2022, ghi nhận bổ sung một DNNN thực hiện cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 309 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 278 tỷ đồng. Trong 11 tháng năm 2023, chưa có doanh nghiệp nào được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa.

Về tình hình thoái vốn, tính đến hết ngày 24/11/2023, đã thoái vốn nhà nước tại 04 doanh nghiệp với giá trị 8,8 tỷ đồng, thu về 19 tỷ đồng; các tập đoàn, tổng công ty, DNNN đã thoái vốn tại 07 doanh nghiệp với giá trị là 53,5 tỷ đồng thu về 206,3 tỷ đồng.

Trước tình hình khó đạt được mục tiêu đề ra, Chính phủ đã nhiều lần ra văn bản hối thúc đẩy mạnh công tác sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và cơ cấu lại DNNN. Bộ Tài chính nhiều lần đề xuất phải phải xử lý nghiêm trường hợp làm chậm, vi phạm quy định về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đại biểu Quốc hội cũng từng lên tiếng đề nghị xác định trách nhiệm và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân, người đứng đầu doanh nghiệp chậm triển khai, vi phạm trong quá trình cổ phẩn hóa, thoái vốn nhà nước. Tuy nhiên, tình hình vẫn không mấy “xoay chuyển.

Phân tích về nguyên nhân chậm trễ, Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) từng lý giải là do những bất ổn lớn của thị trường tài chính trong nước và quốc tế; ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn phụ thuộc vào tình hình thị trường, lựa chọn thời điểm bán cổ phần hợp lý để đem lại hiệu quả, đảm bảo tính khả thi.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký văn bản số 1026/TTg-ĐMDN ngày 27/10/2023 yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương nghiêm túc, quyết liệt thực hiện cơ cấu lại, sắp xếp lại, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định.

Đồng thời, đặc thù của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong giai đoạn này là các doanh nghiệp lớn, phạm vi hoạt động rộng, đa ngành, đa lĩnh vực, nhiều tài sản chuyên ngành, khó xác định giá trị, một số đơn vị vi phạm quy định về quản lý vốn, tài sản đang thực hiện thanh tra, kiểm tra, điều tra; các doanh nghiệp nhỏ và vừa là các đơn vị cung ứng, sản phẩm dịch vụ công ích, hoạt động gắn liền với các hoạt động của địa phương.

Về nguyên nhân chủ quan, nhận thức và tổ chức thực hiện của một số cơ quan đại diện chủ sở hữu và người đứng đầu doanh nghiệp còn chưa cao, chưa quyết liệt trong tổ chức triển khai, thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nên còn tư tưởng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.

Việc rà soát, lập kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 chưa được các cơ quan, đơn vị quan tâm đúng mức; công tác chuẩn bị cổ phần hóa, thoái vốn chưa tốt. Nhiều doanh nghiệp chưa hoàn thiện đầy đủ thủ tục pháp lý sắp xếp lại, xử lý các cơ sở nhà, đất theo pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công trước khi cổ phần hóa, thoái vốn; còn nhiều vướng mắc, tồn tại về tài chính chưa được xử lý dứt điểm; việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các UBND tỉnh, thành phố, bộ, ngành liên quan trong xử lý vướng mắc phê duyệt phương án sử dụng đất; xử lý tồn tại tài chính còn chưa tốt, kéo dài.

Ông Hoàng Minh Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật Quốc hội cho rằng, hệ thống pháp luật về cổ phần hoá có liên quan đến quá nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, từ Luật Doanh nghiệp cho đến Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN, Luật Đất đai, Luật Đấu giá… khi phạm vi liên quan quá lớn đã tạo ra những điểm sơ hở là không tránh khỏi.

“Cùng một hệ thống pháp luật nhưng có những trường hợp thực hiện kết quả tốt, có trường hợp kết quả không được như mong đợi. Vì vậy, khi đánh giá hệ thống pháp luật, cần phải cân nhắc và tránh đổ lỗi cho cả hệ thống; ngược lại, cũng không nên cho rằng hệ thống pháp luật không có lỗi, chỉ là do việc thực hiện pháp luật chưa tốt”, ông Hiếu nhận định.

Để đẩy nhanh tiến độ và chất lượng cổ phần hoá, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước, nhiều chuyên gia kinh tế đề nghị Chính phủ đánh giá cụ thể các vướng mắc về pháp luật trong thực hiện cơ cấu lại DNNN; tiếp tục quyết liệt thực hiện các biện pháp nhằm tránh thất thoát vốn nhà nước, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu và giá trị truyền thống của DN thực hiện cổ phần hoá.

Giá trị của khu đất “vàng” đang “giữ chân” tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp?
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc

Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn của Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XV, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc thừa nhận cổ phần hóa trong nhiệm kỳ này chậm do nhiều nguyên nhân, trong đó có 3 nguyên nhân cơ bản nhất.

Thứ nhất, khi các doanh nghiệp muốn mua doanh nghiệp cổ phần hóa thì sẽ nhìn vào các khu "đất vàng". Bây giờ Nghị quyết 60 của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ quy định không cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất thuê sang đất ở. Vì vậy rõ ràng sẽ không còn địa tô chênh lệch, thì doanh nghiệp người ta không mua các công ty.

Thứ hai là phương án sử dụng đất, gần như các chính quyền địa phương không phê chuẩn. Bởi vì việc chuyển mục đích sử dụng từ đất thuê sang đất ở đã bị nghiêm cấm.

Thứ ba là tính quyền sử dụng đất vào trong giá trị doanh nghiệp các giá trị tài sản khác cần thẩm định giá... Điều này tạo nên các rủi ro trong phương án cổ phần hóa. Các Bộ ngành, doanh nghiệp vì đó chưa trình các phương án cổ phần hóa nên gây ra chậm trễ trong vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.

Về việc chậm cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đánh giá: "Giai đoạn trước chúng ta chỉ thực hiện được 30%, còn 10 tháng năm nay chúng ta thực hiện được kết quả khiêm tốn".

Phó Thủ tướng nêu một số nguyên nhân. Bất ổn của thị trường tài chính trong nước, đặc biệt là tác động của dịch Covid-19, làm công tác cổ phần hóa cũng như nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư bị hạn chế. Đặc biệt, đặc thù của các doanh nghiệp cổ phần hóa hiện nay là các doanh nghiệp còn lại rất khó khăn và những doanh nghiệp quy mô lớn.

Trong thời gian vừa qua, có những doanh nghiệp, tổng công ty khi cổ phần hóa thì sự tham gia của xã hội không nhiều. Thậm chí những doanh nghiệp xã hội hóa cũng chỉ được 1% ví dụ Cienco 1, Cienco 2, Cienco 3. Hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện tham gia cung ứng dịch vụ công ích do đó việc cổ phần hóa cũng rất khó khăn. Đặc biệt, trình tự thủ tục các quy định liên quan vấn đề này rất phức tạp.

Cổ phần hoá được chuyên gia ví như một bức tranh nhiều màu sắc, sắc thái. Bên cạnh điểm yếu vẫn có một số trường hợp rất thành công. Chúng ta cũng không nên chỉ xét về giai đoạn, mà cần nhìn rộng hơn bức tranh với nhiều màu sắc tương phản, có DN hoạt động tốt, một số DN không như mong muốn để thấy rằng câu chuyện cổ phần hóa rất khó, từ lý thuyết cho đến kế hoạch đơn thuần.

Theo báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính, tính đến ngày 24/11/2023, đã có 60 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp theo Quyết định số 360/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó có 11 doanh nghiệp thuộc Trung ương và 49 doanh nghiệp thuộc các địa phương.

Cùng với 11 doanh nghiệp Trung ương được phê duyệt Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp còn có 49 doanh nghiệp thuộc các địa phương. Các đơn vị còn lại đang triển khai xây dựng đề án cơ cấu lại doanh nghiệp để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.

Về tình hình cổ phần hóa, Bộ Tài chính cho biết, trong giai đoạn từ năm 2022 đến nay, hệ thống các cơ chế chính sách pháp luật phục vụ quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được ban hành đầy đủ, tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, đảm bảo chặt chẽ hơn, công khai, minh bạch, tối đa hóa lợi ích của Nhà nước, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn và hạn chế thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Theo đó, năm 2022, ghi nhận bổ sung 1 DNNN thực hiện cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 309 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 278 tỷ đồng.

Trong 11 tháng năm 2023, các đơn vị tiếp tục triển khai công tác cổ phần hóa theo phê duyệt kế hoạch sắp xếp lại DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước giai đoạn 2022-2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 29/11/2022 nhưng chưa có doanh nghiệp nào được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa.

Về tình hình thoái vốn, tính đến hết ngày 24/11/2023, đã thoái vốn nhà nước tại 04 doanh nghiệp (trong đó 03 doanh nghiệp theo Quyết định số 1479/QĐ-TTg, 01 doanh nghiệp theo Thông báo số 281/TB-VPCP) với giá trị 8,8 tỷ đồng, thu về 19 tỷ đồng; các tập đoàn, tổng công ty, DNNN đã thoái vốn tại 07 doanh nghiệp với giá trị là 53,5 tỷ đồng thu về 206,3 tỷ đồng.

Hải Minh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,250 75,250
Nguyên liệu 999 - HN 74,150 75,150
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 28/04/2024 18:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 28/04/2024 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 28/04/2024 18:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 28/04/2024 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 28/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,236 16,256 16,856
CAD 18,226 18,236 18,936
CHF 27,195 27,215 28,165
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,092 31,102 32,272
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 155.83 155.98 165.53
KRW 16.19 16.39 20.19
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,215 2,335
NZD 14,779 14,789 15,369
SEK - 2,245 2,380
SGD 18,035 18,045 18,845
THB 632.42 672.42 700.42
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 28/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 28/04/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/04/2024 18:45