Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2022: Nhìn từ quá trình triển khai đổi mới tư duy của Đảng

11:05 | 24/07/2023

7,035 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ngay từ những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã hướng đến xây dựng nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng giai đoạn 2011-2022, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2022: Nhìn từ quá trình triển khai đổi mới tư duy của Đảng
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol chứng kiến lễ trao đổi các văn kiện hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Hàn Quốc, ngày 23-6-2023. Ảnh: TTXVN

Những yếu tố mới tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2022

Thế giới chứng kiến những biến động lớn về kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008-2009 đã dẫn tới sự suy thoái nền kinh tế của nhiều quốc gia, nhất là ở châu Âu, khiến tăng trưởng kinh tế và thương mại của nhiều nước giảm mạnh. Một trong những hệ quả của cuộc khủng hoảng này là tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia cũng như trật tự kinh tế quốc tế, khu vực có nhiều thay đổi. Thời gian này, Trung Quốc trở thành động lực tăng trưởng quan trọng nhất của nền kinh tế thế giới khi vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Năm 2020, thế giới chứng kiến đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ, gây ra cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu chưa từng có trong lịch sử, ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế của các quốc gia. Cuộc khủng hoảng này đã làm thay đổi sâu sắc xu thế phát triển và cơ cấu của nền kinh tế thế giới, đẩy nhanh quá trình số hóa nền kinh tế của các quốc gia và toàn cầu, làm đảo lộn các hoạt động thương mại và dòng chảy đầu tư quốc tế.

Xu hướng tự do hóa thương mại tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Hội nhập kinh tế đa phương đang chững lại với sự bế tắc của Vòng đàm phán Doha. Điều đó đã dẫn đến sự nở rộ của các hiệp định thương mại tự do (FTA) trên nhiều tuyến và nhiều cấp độ, cũng như sự xuất hiện các FTA thế hệ mới, như: Hiệp định thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương giữa Mỹ và Liên minh châu Âu (TTIP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA)…

Bên cạnh đó, hội nhập và bảo hộ tiếp tục là hai mặt của hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề bảo hộ đang có những thay đổi, không còn mang tính chất bảo hộ “bằng mọi giá”, mà chuyển dần sang việc bảo hộ hiệu quả và bảo vệ nền kinh tế nhiều hơn. Bảo hộ hiện nay chủ yếu không phải là những hình thức bảo hộ cổ điển, áp dụng các rào cản thuế quan, mà là những rào cản hiện đại, rào cản phi thuế quan, nhất là ở các nước phát triển.

Lợi ích quốc gia - dân tộc trở thành nhân tố chi phối quan hệ quốc tế. Nhiều vấn đề toàn cầu xuất hiện đòi hỏi các quốc gia phải cùng tham gia giải quyết. Lợi ích quốc gia-dân tộc trở thành nhân tố trung tâm, chi phối và dẫn dắt chính sách đối ngoại của các quốc gia, tác động đến mối quan hệ hợp tác-cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như sự liên minh, liên kết và tập hợp lực lượng quốc tế trên thế giới hiện nay. Trong quan hệ quốc tế, chưa khi nào sự hợp tác và đấu tranh giữa các quốc gia vì lợi ích quốc gia-dân tộc lại chịu sự ràng buộc, tùy thuộc vào chế ước và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế như hiện nay. Dù giữa các quốc gia luôn có sự mâu thuẫn, đối kháng, song các nước cũng cần hợp tác trên những khía cạnh, vấn đề, thời điểm nhất định vì vận mệnh và lợi ích chung.

Tình hình thế giới và khu vực diễn biến rất phức tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiềm ẩn những nhân tố gây bất ổn trên bình diện toàn cầu. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế-chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, gây ra nhiều bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài.

Với những thành tựu, kinh nghiệm của quá trình đổi mới, Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới. Những kết quả của tiến trình đổi mới đất nước đã tạo sức mạnh tổng hợp lớn hơn so với giai đoạn trước. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của Việt Nam tiếp tục được củng cố, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân.

Công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) đánh giá: “Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác”(1).

Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng giai đoạn 2011-2022

Về phương hướng, trên cơ sở đánh giá các điều kiện trong nước sau 25 năm đổi mới và tình hình thế giới, khu vực, Đại hội XI của Đảng khẳng định Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(2) và chủ trương chuyển từ “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”(3) sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(4). Với chủ trương này, sự chủ động, tích cực hội nhập quốc tế không chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà còn mở rộng với quy mô toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh... Đây là bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới. Chính vì vậy, trong quá trình hội nhập quốc tế, cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, với nhiều cơ hội đan xen thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập quốc tế tùy theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, “Về hội nhập quốc tế”. Nghị quyết xác định trong quá trình hội nhập quốc tế, “hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế”. Năm 2016, Đại hội XII của Đảng bổ sung phương hướng hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đáp ứng tình hình mới, đó là: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước”(5).

Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn 2011-2022, từ định hướng hội nhập kinh tế là trọng tâm trong quá trình hội nhập quốc tế, phương hướng hội nhập kinh tế quốc tế có sự kế thừa, phát triển, được thể hiện ở một số điểm: Một là, phương thức hội nhập kinh tế quốc tế chủ đạo là tham gia các tiến trình đối thoại, hợp tác song phương, đa phương hoặc quốc tế; tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế; tham gia các phong trào, các trào lưu chung của khu vực và quốc tế; hai là, chấp thuận và áp dụng, nội địa hóa các nguyên tắc, chuẩn mực chung quốc tế bao gồm các tập quán, chuẩn mực, thỏa thuận, công ước, điều ước khu vực, quốc tế; ba là, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế theo hướng trở thành thành viên nòng cốt, dẫn dắt tại một số diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể.

Về mục tiêu, Đại hội XI của Đảng xác định “xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến”(6). Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh cần “đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”(7). Để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới khi Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Nghị quyết xác định mục tiêu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam là: “Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”(8).

So với giai đoạn trước, mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế mà Nghị quyết số 06-NQ/TW đưa ra thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức, tư duy của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đây, biện pháp đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế được sử dụng nhằm phá thế bao vây, cấm vận, tranh thủ nguồn lực quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu thì đến giai đoạn này, hội nhập kinh tế quốc tế có thêm nhiệm vụ nâng cao uy tín và vị thế của đất nước. Vì vậy, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc tăng cường tham gia và có tiếng nói tại các tổ chức khu vực, diễn đàn đa phương, nhất là các tổ chức, diễn đàn về kinh tế, thương mại, phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là phương tiện tìm kiếm và thúc đẩy lợi ích, là việc chọn sân chơi và luật chơi phù hợp để Việt Nam tham gia.

Về quan điểm chỉ đạo, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ quan điểm phát triển của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”(9). Quan điểm này xuất phát từ bối cảnh thế giới đang phát triển trước xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc. Do đó, độc lập, tự chủ trong bối cảnh hiện nay tập trung vào khía cạnh độc lập, tự chủ về kinh tế, bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế.

Có thể thấy, trong giai đoạn 2011-2022, trong bối cảnh đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới, đặc biệt là khi tham gia nhiều FTA thế hệ mới, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng thể hiện ở một số điểm nổi bật sau:

Một là, lợi ích quốc gia là mục tiêu tối thượng của hội nhập kinh tế quốc tế, phải xử lý linh hoạt, khôn khéo mối quan hệ đối tác và đối tượng; hợp tác và đấu tranh, bảo đảm độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia, dân tộc trong hội nhập trên mọi cấp độ song phương, đa phương, toàn cầu. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa nội lực, đi đôi với thu hút sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, tạo thành sức mạnh tổng hợp của đất nước.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, văn hóa truyền thống và hiện đại, nên hội nhập nhưng không hòa tan, bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Ba là, Nhà nước là chủ thể chính, có vai trò dẫn dắt xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, song không phải là chủ thể duy nhất. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, do vậy, các tổ chức, các doanh nghiệp, các địa phương, cá nhân… cùng tham gia các hoạt động của hội nhập kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm trong quá trình hội nhập quốc tế. Xuất phát từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều vấn đề đặt ra về chính trị, quốc phòng, an ninh, môi trường, khí hậu,… nên cần thiết phải hội nhập toàn diện vào đời sống kinh tế-xã hội thế giới, nhưng mục tiêu trọng tâm vẫn là hội nhập kinh tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2022: Nhìn từ quá trình triển khai đổi mới tư duy của Đảng
Sản xuất linh kiện điện tử xuất khẩu tại Khu công nghiệp Bờ Trái Sông Đà, tỉnh Hòa Bình. Ảnh: TTXVN

Một số kết quả đạt được

Đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa: Năm 2012, Việt Nam xuất khẩu 114,6 tỷ USD và nhập khẩu 114,3 tỷ USD và là năm đầu tiên Việt Nam đạt thặng dư trong lĩnh vực xuất khẩu. Đến năm 2014, thặng dư thương mại là 2,37 tỷ USD(10). Trong giai đoạn 5 năm (2011-2015), tổng mức lưu chuyển ngoại thương hàng hóa, dịch vụ đạt 1.439,5 tỷ USD, gấp gần 2,1 lần giai đoạn 2006-2010(11). Nhìn chung, trong giai đoạn 2015-2019, hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước luôn đạt mức tăng trưởng cao qua từng năm. Năm 2020 ghi dấu ấn đặc biệt đối với thương mại toàn cầu với sự bùng phát và diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19. Các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để ngăn chặn dịch bệnh Covid-19, khiến thương mại toàn cầu đình trệ, chuỗi cung ứng đứt gãy, dẫn tới làn sóng phá sản nhiều doanh nghiệp trên toàn cầu. Vượt qua khó khăn, năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,54 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020(12). Mặc dù tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 ở trong nước và tình hình kinh tế thế giới nhiều biến động, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2022 đạt mức kỷ lục 732,5 tỷ USD, trong đó xuất siêu 11,2 tỷ USD(13).

Ký kết và thực hiện các cam kết kinh tế quốc tế: Việt Nam đã phát triển quan hệ kinh tế với các tổ chức quốc tế, các công ty đa quốc gia. Một số hiệp định thương mại song phương của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới được ký kết, như: Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA, năm 2009), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Chile (VCFTA, năm 2011), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA, năm 2015), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU, năm 2016).

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta tiếp tục được thúc đẩy thông qua việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, CPTPP (năm 2016), EVFTA (năm 2020), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP, năm 2020), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam, Anh và Bắc Ireland (UKVFTA, năm 2020). Đến đầu năm 2022, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 17 FTA, trong đó, có 15 FTA có hiệu lực và đang thực thi cam kết, 2 FTA đang đàm phán (FTA giữa Việt Nam và Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA FTA), FTA Việt Nam-Israel)(14). Có thể thấy, việc ký kết các FTA chứng tỏ vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập kinh tế, thương mại ở cả châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương.

Củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế: Vị thế của Việt Nam trên thế giới đã được củng cố toàn diện trong giai đoạn 2011-2022. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ(15). Đến năm 2022, tổng số quan hệ kinh tế - thương mại của Việt Nam đã nâng lên thành 230 nước và vùng lãnh thổ(16). Với việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, vị thế của đất nước tiếp tục được cải thiện đáng kể. Có thể khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trở thành một trong 20 nền thương mại lớn nhất thế giới: WTO ghi nhận việc Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP và cải thiện cán cân thương mại hàng hóa, chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu trong giai đoạn 2016-2020. Theo Tổng cục Thống kê, từ năm 2016 đến năm 2022, cán cân thương mại của Việt Nam luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm, từ 1,77 tỷ USD (năm 2016) lên 2,1 tỷ USD (năm 2017), 6,8 tỷ USD (năm 2018), 10,9 tỷ USD (năm 2019). Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn đạt mức xuất siêu gần 4 tỷ USD. Báo cáo rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO ghi nhận trong số 50 quốc gia có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019 và lọt vào tốp 20 năm 2021(17). Năm 2022, cán cân thương mại xuất siêu đạt 12,4 tỷ USD, là năm thứ 7 liên tiếp cán cân thương mại hàng hóa ở mức thặng dự mặc dù gặp nhiều khó khăn sau ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 (18).

Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) cải thiện mạnh: Trong năm 2019, trước khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát trên thế giới, Việt Nam được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng nhanh, đứng tốp đầu khu vực và thế giới, được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu. Cũng trong năm 2019, Việt Nam lọt vào tốp 10/163 nước “đáng sống nhất thế giới” trong bảng xếp hạng của HSBC Expat; đứng thứ 83/128 nước trong xếp hạng các nước an toàn nhất; xếp thứ 94/156 nước trong Bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc. Năm 2020, quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đứng thứ 44 thế giới, đứng thứ 4 ở khu vực Đông Nam Á và bình quân GDP/đầu người đứng thứ 6 khu vực(19). Đến năm 2022, tốc độ tăng GDP đạt 8,02% (cao nhất trong giai đoạn 2011-2022), GDP bình quân đầu người đạt 4.109 USD/người, tăng 392 USD so với năm 2021, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt(20).

Như vậy, trên cơ sở những kết quả đạt được giai đoạn 2011-2022, trong quá trình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta thời gian tới, cần tiếp tục quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 06-NQ/TW nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, đó là:

Thứ nhất, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia-dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, nhất là mối quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.

Thứ ba, bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là trong những lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị-xã hội.

Thứ tư, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là công đoàn, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

Có thể thấy, dưới sự lãnh đạo sát sao của Đảng ta đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm 2011-2022, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế, thị trường toàn cầu, là quốc gia nằm trong nhóm 30 nước, vùng lãnh thổ có giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa lớn nhất trên phạm vi toàn cầu. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”(21). Tuy nhiên, trước bối cảnh phát triển mới, nước ta cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp về hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời nắm bắt xu thế phát triển của thế giới để tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước các trong giai đoạn tiếp theo./.

-----------------------

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (9) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần II (Đại hội X, XI, XII), Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, tr. 381, 435, 123, 435, 691, 435, 661, 505

(8) Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2016-2020, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 53

(21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135

(10) Nguyễn Chiến Thắng, Lý Hoàng Mai: “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2000-2019”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số tháng 11, 2019, tr. 14-24

(11) Phạm Bình Minh: “Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29: Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế-thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3, 2016, tr. 23

(12) “Vượt qua khó khăn, xuất, nhập khẩu năm 2021 về đích ngoại mục”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 17-1-2022, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/01/vuot-qua-kho-khan-xuat-nhap-khau-nam-2021-ve-dich-ngoan-muc/

(13) “Nỗ lực phục hồi, xuất, nhập khẩu năm 2022 lập kỷ lục mới”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 30-1-2023, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023/01/no-luc-phuc-hoi-xuat-nhap-khau-nam-2022-lap-ky-luc-moi/

(14) “Bảng tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 1-2022”, Cổng thông tin cơ sở dữ liệu thương mại Việt Nam, ngày 10-2-2022, https://vntr.moit.gov.vn/vi/news/bang-tong-hop-cac-fta-cua-viet-nam-tinh-den-thang-012022

(15), (17), (19) “Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam”, Báo Điện tử Đài Truyền hình Việt Nam, ngày 9-1-2022, https://vtv.vn/kinh-te/dau-an-tich-cuc-tren-hanh-trinh-doi-moi-va-hoi-nhap-quoc-te-cua-viet-nam-20220109165818713.htm

(16) “Nhìn lại năm 2022: Khẳng định vị thế, uy tin Việt Nam”, Trang điện tử Thông tấn xã Việt Nam, ngày 25-12-2022, https://baotintuc.vn/thoi-su/nhin-lai-nam-2022-khang-dinh-vi-the-uy-tin-viet-nam-20221225103439544.htm

(18), (20) Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2022, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2023, tr. 13, 10-11

Theo Trần Quốc Việt - Học viện Báo chí và Tuyên truyền/

Tapchicongsan.org.vn

Tinh thần chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua nỗ lực gia nhập và trở thành thành viên WTO - Thành tựu và triển vọngTinh thần chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua nỗ lực gia nhập và trở thành thành viên WTO - Thành tựu và triển vọng
Nâng cao hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vữngNâng cao hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững