Hạ tầng hàng không: Động lực "kích hoạt" nền kinh tế

06:45 | 19/10/2022

112 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Tại nhiều quốc gia, việc phát triển hạ tầng hàng không luôn được chú trọng, bởi đây được xem là động lực và nền tảng để “kích hoạt” những lĩnh vực liên quan như du lịch, logistics, xuất nhập khẩu...
Động lực 'kích hoạt' nền kinh tế
Ngành hàng không tạo ra hàng chục triệu việc làm và đóng góp lớn cho GDP toàn cầu

Hàng không là khu vực kinh tế lớn thứ 17 trên thế giới, hỗ trợ 87,7 triệu việc làm và tạo ra 3.500 tỉ USD trong tổng GDP toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng của ngành hàng không đi liền với việc mở rộng mạng lưới sân bay và đường bay.

Báo cáo “Hàng không: Lợi ích vượt ngoài biên giới” do Nhóm vận tải hàng không liên ngành (Air Transport Action Group - ATAG) và Công ty Tư vấn Oxford Economics phối hợp thực hiện năm 2020 đã phân tích các đóng góp của ngành hàng không với nền kinh tế, vai trò tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đóng góp cho sự phát triển bền vững của các quốc gia.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng, khu vực có lưu lượng khách cao nhất thế giới, ngành hàng không vận chuyển tới 1,7 tỉ lượt khách, là châu Á - Thái Bình Dương. Ngành hàng không đã hỗ trợ 46,7 triệu việc làm và tạo ra 944 tỉ USD. Ngành hàng không ở châu Á - Thái Bình Dương dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 4,2%/năm trong hai thập niên tới, lớn nhất toàn cầu.

Theo sau là khu vực châu Âu, ngành hàng không vận chuyển 1,2 tỉ lượt hành khách và hỗ trợ 13,5 triệu việc làm (trong đó có 2,7 triệu việc làm trực tiếp), tạo ra 991 tỉ USD cho nền kinh tế.

Khu vực kém phát triển là châu Phi, ngành hàng không cũng hỗ trợ 7,7 triệu việc làm và đóng góp 63 tỉ USD vào GDP.

Thực tế, cảng hàng không không chỉ là điểm trung chuyển quan trọng của dòng lưu thông con người và hàng hóa, mà nó còn kết nối các hoạt động giao thương, xuất nhập khẩu, du lịch, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, tạo động lực cho nền kinh tế. Theo đó, cứ 100 triệu USD nghiên cứu và phát triển hàng không sẽ tạo ra lợi ích 700 triệu USD/năm.

Động lực 'kích hoạt' nền kinh tế
Cảng Hàng không Quốc tế Vân Đồn

Đặc biệt, tại những khu vực có địa hình phức tạp, cách trở về địa lý như miền núi, hải đảo..., sự hiện diện của cảng hàng không sẽ xóa bỏ khoảng cách, giúp việc đi lại dễ dàng, tiết kiệm thời gian và chi phí.

Mạng lưới các sân bay sẽ tạo nên “mạch máu” cho nền kinh tế. Hệ thống “mạch máu” càng dày đặc thì việc di chuyển, thông thương, kinh doanh giữa các địa phương, vùng miền, giữa trong nước với thế giới càng trở nên thuận lợi, chưa kể các lợi ích xã hội như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, trợ giúp hoạt động cứu trợ, cứu nạn khi cần thiết...

Tại Việt Nam, ngành hàng không và mạng lưới sân bay đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của các địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA) dự báo, tới năm 2035, hàng không Việt Nam sẽ phục vụ tới 136 triệu lượt hành khách, đóng góp 23 tỉ USD vào GDP.

Dễ nhận thấy, những địa phương được đầu tư hạ tầng hiện đại, trong đó có việc xây mới hoặc đầu tư nâng cấp sân bay, thì ngành du lịch sẽ được kích hoạt mạnh mẽ, lượng khách tăng mạnh, mang lại nguồn thu lớn, điển hình là Phú Quốc, Đà Nẵng, Nha Trang...

Trước đại dịch Covid-19, ngành hàng không Việt Nam tăng trưởng vượt bậc, liên tục đạt 2 chữ số, trung bình 15,8%/năm. Theo Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA), đây là tốc độ tăng trưởng hằng năm thuộc Top nhanh nhất thế giới, cao hơn tốc độ trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh trong suốt các năm 2020-2021, nhưng từ đầu năm 2022 đến nay, hàng không Việt Nam đã bắt đầu khởi sắc. Nhiều nơi khai thác vượt công suất công bố tại các nhà ga hành khách nội địa như Côn Đảo, Cát Bi, Phú Quốc, Liên Khương, Cam Ranh... IATA đánh giá, Việt Nam đứng vị trí số 1 trong danh sách 25 nước có thị trường hàng không nội địa phục hồi nhanh nhất thế giới sau đại dịch Covid-19.

Mặc dù dư địa phát triển của ngành hàng không rất lớn, song do hạn chế về nguồn lực đầu tư, nên mạng lưới cảng hàng không tại Việt Nam còn thưa mỏng. Hiện cả nước chỉ có 22 cảng hàng không đang khai thác, trong đó 20 cảng hàng không có nguồn gốc là sân bay quân sự được cải tạo, nâng cấp thành sân bay dân dụng. Chỉ có 1 cảng hàng không do tư nhân đầu tư là sân bay quốc tế Vân Đồn.

Chất lượng của các sân bay cũng rất đáng lo ngại. Nhiều sân bay xây dựng từ thời chiến tranh, đã xuống cấp, không đáp ứng yêu cầu phát triển và phải lên kế hoạch cải tạo, nâng cấp toàn diện, thậm chí xây mới như sân bay Côn Đảo, Nà Sản... Trong khi đó, các cảng hàng không lớn lại thường xuyên rơi vào tình trạng quá tải như Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng…

Trong bối cảnh nhu cầu kết nối bằng đường hàng không giữa các địa phương và giữa nước ta với thế giới ngày càng tăng, việc nâng cao chất lượng hệ thống sân bay là rất cần thiết. Bên cạnh đầu tư nâng cấp các sân bay hiện hữu có dấu hiệu quá tải, cần phải mở rộng mạng lưới sân bay bằng cách bổ sung sân bay mới, hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế.

Khi ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn, giải pháp huy động các nguồn lực xã hội để đầu tư vào hạ tầng hàng không được đặt ra. Nhiều chuyên gia nhận định, việc huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế để tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hàng không nhằm tạo bước đột phá, thúc đẩy tốc độ phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, thúc đẩy liên kết vùng là hướng đi đúng. Nếu đầu tư vào các dự án sân bay mới, huy động nguồn vốn xã hội sẽ thuận lợi hơn do những dự án này đã nằm trong quy hoạch. Tư nhân đầu tư, Nhà nước giám sát chất lượng, từ đó đưa ra mức phí và thời gian thu phí.

Hiện tại, quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 vẫn đang được lấy ý kiến để chỉnh sửa, hoàn thiện. Trước mắt, cần rà soát và bổ sung vào quy hoạch những dự án cảng hàng không mới tại các địa bàn đang được coi là “vùng trũng” về giao thông nhưng lại có nhiều tiềm năng lớn về phát triển du lịch, thu hút đầu tư. Đây sẽ là cơ sở để thu hút doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư và cân nhắc tính hiệu quả của dự án.

Bài học thành công của sân bay Vân Đồn (Quảng Ninh) có thể được coi là tiền đề quan trọng để thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng hàng không mạnh mẽ hơn nữa.

Việt Nam hiện có 22 sân bay đang hoạt động. Đặc biệt, có duy nhất sân bay Vân Đồn do doanh nghiệp tư nhân đầu tư, vận hành. Theo quy hoạch, tầm nhìn đến năm 2050, nước ta sẽ có 31 sân bay, gồm 14 sân bay quốc tế và 17 sân bay nội địa.

Nguyễn Nhượng