GS.TS Võ Tòng Xuân: Xóa bảo hộ đột ngột ngành mía đường… sẽ nguy!

07:02 | 24/03/2015

1,633 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Thời gian gần đây những bất cập trong ngành mía đường liên tục được đề cập. Xung quanh việc nên hay không nên tiếp tục bảo hộ ngành này vẫn đang diễn ra, Báo Năng lượng Mới có cuộc trao đổi với GS.TS Võ Tòng Xuân, quyền Hiệu trưởng Trường đại học Nam Cần Thơ, chuyên gia kinh tế nông nghiệp về vấn đề này.

Năng lượng Mới số 406

PV: Thưa giáo sư, việc bảo hộ quá lâu cho ngành mía đường có phải là nguyên nhân tạo sức ỳ, chậm cải tiến, đổi mới khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng trong ngành này?

GS.TS Võ Tòng Xuân

GS.TS Võ Tòng Xuân: Thực sự thời gian qua, cả các nhà máy đường và nông dân cũng ỷ lại sự bảo hộ của Nhà nước. Nhưng mà chính sách bảo hộ này không thể nào tiếp tục được lâu dài. Theo cam kết với ASEAN, đến năm 2018 chúng ta phải xóa bỏ bảo hộ với mặt hàng đường và theo các hiệp định thương mại tự do khác thì mức độ hội nhập kinh tế sẽ ngày càng sâu, rộng. Cho nên chúng ta phải từng bước tiến đến việc xóa bỏ bảo hộ với ngành mía đường.

PV: Chính sách bảo hộ nhằm bảo vệ lợi ích của người nông dân, tuy nhiên nhiều phân tích cho rằng, chính sách này đã không phát huy được tác dụng khi mà ngành mía đường của ta quá lạc hậu, nông dân trồng mía liên tục lao đao vì thua lỗ? Theo giáo sư thì việc bảo hộ có thật sự mang lại lợi ích cho người nông dân hay không?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Theo tôi, việc bảo hộ của Nhà nước có đem lại lợi ích cho nông dân. Chứ với việc canh tác lạc hậu như hiện nay trong ngành mía đường, không có sự bảo hộ nông dân sẽ sống không nổi. Nhờ có bảo hộ mà các nhà máy đường mới thu mua mía với giá tương đối chấp nhận được để người nông dân trồng mía có lãi. Tất nhiên, không phải tất cả nông dân đều được lợi từ việc bảo hộ này. Tình trạng thua lỗ của người nông dân do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là chi phí đầu vào cao, năng suất thấp. Như những người nông dân thuê đất để trồng mía (việc này phổ biến ở Nam Bộ), 1ha đất thuê khoảng 20 triệu đồng, khi họ thu hoạch thì dù bán được giá tốt tiền lãi cũng đáng bao nhiêu. Bởi ngoài chi phí bỏ ra lớn họ còn phải trả thêm tiền thuê đất.

PV: Có ý kiến cho rằng, người nông dân khốn khó với cây mía vì thường xuyên bị doanh nghiệp ép giá, nợ tiền mua mía, phải “bán mía lấy đường”... trong khi đó giá đường bán ra thị trường lại cao hơn nhiều nước trên thế giới, người tiêu dùng bị thiệt, giáo sư nhận định như thế nào?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Giá mía mà các nhà máy đường mua của người nông dân theo tôi đã là cao chứ không phải thấp. Như so với Thái Lan, hoặc các nước khác thì cao hơn. Giá mía hiện nay ở nước ta
40-50USD/tấn, trong khi đó ở Thái Lan chỉ khoảng 30USD/tấn, Brazil chỉ khoảng 16USD/tấn thôi. Do đó, theo tôi người nông dân không bị ép giá. Với giá mía thu vào như vậy thì giá thành 1kg đường làm ra tại nhà máy khoảng 12.000-13.000 đồng/kg, bán ra thị trường 18.000-19.000 đồng/kg (vì cộng thêm chi phí qua các kênh lưu thông, phân phối). Ở Thái Lan thì giá đường tại nhà máy chỉ khoảng 8.000
đồng/kg. Cũng bởi mua mía giá cao nhưng trữ đường của mía không tốt, giá thành đường làm ra cao, không ít nhà máy đã bị thua lỗ, sạt nghiệp, dẫn đến chuyện nợ tiền nông dân. Theo tôi biết hiện nay có ít nhất 4 nhà máy rơi vào tình trạng thua lỗ, sạt nghiệp.

PV: Nhiều phân tích cho rằng, phải rút bảo hộ ngành mía đường mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành này, theo giáo sư thì sao?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Khi chúng ta xóa bảo hộ sẽ đặt người nông dân và doanh nghiệp mía đường trước áp lực cạnh tranh, buộc họ phải vận động để tồn tại. Trước mắt là từng bước cho phép nhập khẩu đường tạo sức ép cạnh tranh cho ngành mía đường trong nước để thay đổi phương thức sản xuất. Việc sớm cho nhập khẩu đường có nhiều điểm lợi. Với giá nhập khẩu 40 cent/tấn đưa giá đường thành phẩm trên thị trường xuống khoảng 17.000 đồng/kg, người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi. Tuy nhiên, hiện nay ngành mía đường đang trong giai đoạn không cạnh tranh được với nước ngoài nên mới phải sử dụng chính sách bảo hộ, nếu xóa bảo hộ đột ngột thì nông dân, doanh nghiệp không sống nổi. Do đó, trong khi đang bảo hộ như thế này chúng ta phải tính đến ngày không được bảo hộ nữa để chuẩn bị, tăng cường năng lực cạnh tranh của cây mía ở Việt Nam, giúp ngành mía đường có thể đứng vững khi không còn bảo hộ. Sắp tới các cam kết với ASEAN và quốc tế không cho phép chúng ta sử dụng chính sách bảo hộ nữa nhưng xóa bỏ bảo hộ cũng phải làm từng bước chứ bỏ liền là trở tay không kịp.

Mía được trồng tự phát năng suất kém, trữ đường thấp

PV: Theo giáo sư, làm thế nào để tăng năng lực cạnh tranh của ngành mía đường nước ta?

GS.TS Võ Tòng Xuân: Theo tôi có ít nhất có 3 vấn đề phải giải quyết. Trong đó, đầu tiên và cơ bản nhất là vấn đề khoa học kỹ thuật. Phải đẩy mạnh nghiên cứu, từ nghiên cứu về giống mía đến các biện pháp làm đất, bón phân, tưới nước… để có thể tăng năng suất cây mía lên mức khoảng
80 tấn/ha và tăng trữ đường lên. Đây là vấn đề mà trong thời gian vừa qua Nhà nước rất lơ là hoặc chỉ khuyến cáo chung chung dẫn đến người nông dân không thể ứng dụng, vẫn tốn nhiều chi phí cho phân, thuốc nhưng năng suất kém, trữ đường thấp. Trong khi đó, các nhà máy đường cũng không mặn mà gì với khoa học kỹ thuật, ngoại trừ việc họ đi tìm các giống mía của Thái Lan, Trung Quốc đem về áp dụng nhưng kết quả không ổn định.

Thứ hai là phải cải tiến các thiết bị nhà máy đường để chạy ra đường hiệu quả hơn.

Thứ ba là chính sách của Nhà nước, khi rút bảo hộ Nhà nước phải có chính sách để gắn kết những người nông dân trồng mía lại với nhau trong các câu lạc bộ, hợp tác xã để họ được sự hỗ trợ về mặt tài chính và quan trọng hơn là về mặt kỹ thuật, đảm bảo rằng việc trồng mía sẽ được lợi hơn là trồng các loại cây khác trên cùng vùng canh tác. Trên cơ sở đó, nguồn nguyên liệu cho các nhà máy sẽ được ổn định, tránh được việc trồng manh mún, không cơ giới hoá được, năng suất không cao. Và khi nông dân kết hợp được với nhau họ cũng khắng khít với các nhà máy đường hơn.

PV: Xin cảm ơn giáo sư!

“Nhiều năm qua, hiệp hội và các doanh nghiệp mía đường đã không phổ biến được các giống mía mới, năng suất cao tại Việt Nam để tăng năng suất và hiệu quả canh tác. Năng suất trồng mía bình quân của Việt Nam hiện nay là 60 tấn/ha trong khi năng suất của Thái Lan xấp xỉ 100 tấn/ha, của Hoàng Anh - Gia Lai (tại Lào) là 120 tấn/ha. Các doanh nghiệp mía đường cũng không quan tâm đầu tư vùng nguyên liệu riêng của mình để làm hạt nhân thay đổi cho hoạt động canh tác mía… Thay vì trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, các doanh nghiệp sản xuất mía đường trong nước trước hết nên tập cạnh tranh tạo áp lực tái cơ cấu, mua bán, sát nhập nhằm mở rộng quy mô đầu tư, tăng cường hiệu quả”.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú

Mai Phương (thực hiện)

 

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC HCM 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC ĐN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
TPHCM - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Hà Nội - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Hà Nội - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Đà Nẵng - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Đà Nẵng - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Miền Tây - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Miền Tây - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼800K 113.000 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼800K 112.890 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼790K 112.200 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼790K 111.970 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼600K 84.900 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼460K 66.260 ▼460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼330K 47.160 ▼330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼730K 103.610 ▼730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼490K 69.080 ▼490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼520K 73.600 ▼520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼540K 76.990 ▼540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼300K 42.530 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼260K 37.440 ▼260K
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 ▼20K 11,410 ▼30K
Trang sức 99.9 10,980 ▼20K 11,400 ▼30K
NL 99.99 10,740 ▼20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Nghệ An 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Hà Nội 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Cập nhật: 07/06/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 22:00