Giá dầu trước nhiều thách thức, rủi ro

16:08 | 07/04/2021

4,042 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Bức tranh kinh tế toàn cầu có dấu hiệu khởi sắc nhưng chưa rõ nét, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, trong khi nguồn cung dầu thô đã được lên lộ trình tăng sẽ là những nhân tố chính chi phối giá dầu thô thời gian tới.

Theo các dữ liệu kinh tế được công bố thời gian gần đây, Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn cầu Global PMI Mfg tháng 3/2021 tiếp tục tăng 1,1 điểm lên 55 là mức cao nhất kể từ tháng 02/2011, tất cả các chỉ số phụ đều ở mức trên 50 điểm, bao gồm: sản lượng 55,1 (+0,8), đơn đặt hàng mới 55,8 (+1,8), đơn đặt hàng xuất khẩu mới 53,4 (+2,4). Hầu hết chỉ số đều tăng trưởng tại các nền kinh tế lớn, Mỹ 64.7 (+3,9), EU 62,5 (+4,6), Nhật Bản 52 (+0,7), Trung Quốc 51,9 (-0,3) và LB Nga 51,1 (-0,4) giảm nhẹ, nhưng vẫn duy trì trên mốc 50 điểm.

Có được những con số ấn tượng trên, theo giới phân tích là do việc các nước đã đẩy mạnh và triển khai có hiệu quả chương trình vắc-xin Covid-19. Điều này đã góp phần hạn chế tác động tiêu cực của dịch bênh, thúc đẩy các hoạt động kinh tế phục hồi, qua đó làm tăng nhu cầu tuyển dụng và chi tiêu. Ví như ở Mỹ, dữ liệu được Bộ Lao động Mỹ công bố hôm 25/3 cho thấy, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của người Mỹ tuần trước chỉ là 684.000, mức thấp nhất kể từ giữa tháng 3 năm ngoái. Làn sóng lạc quan về kinh tế Mỹ giữa bối cảnh Mỹ triển khai nhanh chóng việc tiêm chủng vắc xin và lợi suất trái phiếu kho bạc trở lại quỹ đạo tăng đã hậu thuẫn cho đồng USD tăng giá, lên gần sát mức cao nhất 4 tháng vừa qua.

Giá dầu trước nhiều thách thức, rủi ro
Giới đầu tư đang có tâm lý lạc quan với đà phục hồi của nền kinh tế Mỹ.

Đà phục hồi của nền kinh tế số 1 thế giới được dự báo sẽ tiếp tục lạc quan khi ngày 31/3, Tổng thống Joe Biden đã công bố gói kích thích kinh tế tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng có giá trị lên tới hơn 2.000 tỷ USD nhằm giúp nền kinh tế hồi phục sau đại dịch. Theo đó, Mỹ sẽ chi 2.000 tỷ USD trong 8 năm tới và nâng thuế thu nhập doanh nghiệp lên 28% để tài trợ nỗ lực này. Gói kích thích này sẽ giành 621 tỷ USD chi cho các cơ sở hạ tầng của ngành vận tải như đường sá, cầu cống, cảng biển, sân bay, phương tiện công cộng và các dự án phát triển xe điện; 400 tỷ USD cho việc chăm sóc những người già và người tàn tật; 300 tỷ USD chi vào nỗ lực cải thiện hệ thống nước uống, mở rộng băng thông Internet và nâng cấp hệ thống đường dây điện; 300 tỷ USD xây dựng và cải tạo nhà ở xã hội, cùng với đầu tư cho hệ thống trường học; 580 tỷ USD cho ngành sản xuất, công tác R&D và các nỗ lực đào tạo nghề.

Hay với Trung Quốc, trong tháng 3/2021, hoạt động sản xuất của nước này cũng đạt mức tăng trưởng nhanh nhất trong 3 tháng trong bối cảnh các nhà máy tăng cường sản xuất sau dịp Tết Nguyên đán. Cùng với đó, sự cải thiện nhu cầu trên toàn cầu càng củng cố đà hồi phục kinh tế vững chắc của Trung Quốc. Chỉ số PMI sản xuất chính thức của Trung Quốc tăng lên 51.9 trong tháng 3/2021 (từ mức 50.6 của tháng 2/2021), dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia (NBS) cho thấy trong ngày 31/03.

Mặc dù vậy, xu hướng phục hồi của kinh tế thế giới năm 2021 vẫn chưa rõ nét khi vẫn tồn tại nhiều nguy cơ bất ổn từ các vấn đề địa chính trị, xung đột thương mại và diễn biến khó lường từ dịch Covid-19.

Gói kích thích 1.900 tỷ USD vừa được Mỹ thông qua có thể kéo nhu cầu hàng Trung Quốc lên cao. Theo Allianz SE, khoảng 360 tỷ USD trong gói kích thích sẽ được chi tiêu cho nhập khẩu. Theo đó, xuất khẩu của Trung Quốc có thể sẽ tăng thêm 60 tỷ USD trong giai đoạn 2021-2022, khi người dân Mỹ mua máy tính, thiết bị gia dụng và quần áo. Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là giá hàng hóa do Trung Quốc sản xuất sẽ tăng lên và khả năng mối căng thẳng giữa 2 nước sẽ leo thang do mất cân bằng thương mại. Trong một diễn biến khác, xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ hơn cũng làm chậm nỗ lực của Bắc Kinh trong việc tái cân bằng nền kinh tế, để giúp quốc gia này phụ thuộc nhiều hơn vào tiêu dùng nội địa và ít hơn vào sản xuất công nghiệp.

Các nền kinh tế đang phục hồi khiến nhu cầu hàng tiêu dùng bùng nổ, tạo ra áp lực lớn lên các chuỗi cung ứng vốn đã đang gián đoạn nghiêm trọng do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Thêm vào đó, sự cố tàu mắc cạn ở kênh Suez (nơi có tới 12% khối lượng thương mại toàn cầu và giá trị hàng hóa lên tới 10 tỷ USD mỗi ngày đi qua đây) càng làm trầm trọng hơn tình trạng gián đoạn cung ứng, đẩy giá thành chi phí đầu vào lên cao. Về dài hạn giá hàng hóa tăng sẽ dẫn đến nguy cơ lạm phát trong nền kinh tế, vốn đã trở thành nỗi lo ngại gần đây do các biện pháp nới lỏng tài khóa.

nhung-tac-dong-cua-khung-hoang-gia-dau
Dịch Covdi-19 vẫn được nhận định là tác nhân chính có khả năng tác động mạnh nhất đến diễn biến của giá dầu.

Dịch Covid-19 đang được kiểm soát nhờ các nước đẩy mạnh các chương trình vắc-xin nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro có thể mang đến một làn sóng bùng phát mới, đặc biệt là tại các nền kinh tế lớn như Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha...

Từ những dự cảm như trên, WB đưa ra mức dự báo thấp hơn với tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2021 là 4% với những lo ngại về tình hình dịch bệnh có thể diễn biến phức tạp.

Trong khi triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu chưa rõ nét, còn nhiều rủi ro, qua đó đe dọa tốc độ phục hồi nhu cầu dầu thô thì cung dầu thô lại có lộ trình điều chỉnh tăng rõ rệt.

Cụ thể, sau cuộc họp chính sách ngày 1/4, OPEC+ quyết định tăng sản lượng khai thác thêm 350.000 thùng/ngày từ tháng 5 và 6, tăng thêm 441.000 thùng/ngày từ tháng 7; đồng thời kéo dài thời hạn bù đắp khối lượng đã khai thác vượt (khoảng 90 triệu thùng) đến cuối tháng 9. Tổng cộng trong 3 tháng sẽ tăng 1,15 triệu thùng, phần của LB Nga là 114.000 thùng. Trong khi Saudi Arabia sẽ giảm dần khối lượng cắt giảm tự nguyện bổ sung (1 triệu thùng/ngày) cũng trong giai đoạn này. Như vậy, nguồn cung dầu thô sẽ được bổ sung trong 3 tháng tới sẽ tăng 2,15 triệu thùng/ngày.

Hiện tại OPEC+ đang thực hiện cắt giảm sản lượng ở mức 8,2 triệu thùng/ngày, trong đó có 1 triệu thùng/ngày là cam kết cắt giảm sản lượng tự nguyện của Saudi Arabia. Mức cắt giảm sản lượng của OPEC+ có thể sẽ được điều chỉnh vào cuộc họp thường kỳ của khối dự kiến được tổ chức vào ngày 28/4 tới.

Ngoài ra, giá dầu thế giới sẽ còn chịu sức ép từ nguồn cung dầu thô từ Iran, bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu dầu thô của nước này.

Trước đó, ngày 31/3, về nhu cầu dầu thô, Ủy ban kỹ thuật OPEC+ (JTC) đã điều chỉnh giảm triển vọng tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ dầu thô thế giới năm 2021 từ 5,9 triệu xuống 5,6 triệu thùng/ngày, phát đi tín hiệu tiêu cực hơn về thị trường. Theo JTC, nhu cầu bị ảnh hưởng chủ yếu trong vài tháng tới (đến giữa quý 3/2021) trong khi sản lượng khai thác vượt hạn ngạch cộng dồn đến tháng 3 tăng lên 3 triệu thùng/ngày so với 2,8 triệu thùng/ngày của tháng 2/2021.

Như vậy có thể thấy, giá dầu thế giới thời gian tới sẽ bị chi phối mạnh bởi đà phục hồi kinh tế, đặc biệt là 2 nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc, trong đó rủi ro về dịch Covdi-19 tiếp tục là nhân tố tác động lớn nhất.

Cập nhật dữ liệu đến 16h ngày 7/4, giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2021 đứng ở mức 59,07 USD/thùng, giảm 0,26 USD/thùng trong phiên. Trong khi đó, giá dầu Brent giao tháng 6/2021 đứng ở mức 62,39 USD/thùng, giảm 0,35 USD/thùng trong phiên.

Giá dầu ngày 7/4 tiếp tục có xu hướng trượt nhẹ trong bối cảnh lo ngại sự gia tăng nguồn cung vượt quá nhu cầu phục hồi nhiên liệu, trong đó có dầu thô, trên thị trường.

Hà Lê

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,600 ▲200K 69,100 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 68,500 ▲200K 69,000 ▲200K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,746.30 15,905.35 16,416.24
CAD 17,788.18 17,967.86 18,545.00
CHF 26,675.39 26,944.84 27,810.33
CNY 3,359.56 3,393.49 3,503.02
DKK - 3,529.14 3,664.43
EUR 26,123.05 26,386.92 27,556.48
GBP 30,490.18 30,798.16 31,787.43
HKD 3,088.24 3,119.43 3,219.63
INR - 296.48 308.35
JPY 158.88 160.48 168.16
KRW 15.92 17.68 19.29
KWD - 80,418.21 83,636.45
MYR - 5,184.94 5,298.23
NOK - 2,247.55 2,343.06
RUB - 256.11 283.53
SAR - 6,591.62 6,855.41
SEK - 2,284.40 2,381.48
SGD 17,924.11 18,105.16 18,686.71
THB 601.12 667.91 693.52
USD 24,590.00 24,620.00 24,960.00
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,852 15,952 16,402
CAD 17,971 18,071 18,621
CHF 26,899 27,004 27,804
CNY - 3,389 3,499
DKK - 3,536 3,666
EUR #26,280 26,315 27,575
GBP 30,854 30,904 31,864
HKD 3,092 3,107 3,242
JPY 160.36 160.36 168.31
KRW 16.56 17.36 20.16
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,247 2,327
NZD 14,545 14,595 15,112
SEK - 2,268 2,378
SGD 17,909 18,009 18,609
THB 626 670.34 694
USD #24,535 24,615 24,955
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24570 24620 24960
AUD 15886 15936 16338
CAD 18007 18057 18462
CHF 27134 27184 27596
CNY 0 3391.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26482 26532 27034
GBP 31025 31075 31535
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14585 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18204 18204 18555
THB 0 638.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 16:00