Đưa vào vận hành NMNĐ Thái Bình 2, Sông Hậu 1 là điểm sáng của nền kinh tế

18:16 | 01/10/2022

10,942 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài, các dự án yếu kém được tập trung xử lý, có hiệu quả, báo cáo cấp có thẩm quyền trên tinh thần không hợp thức hóa cái sai nhưng có giải pháp để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, giải phóng các nguồn lực, như đưa vào vận hành Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, Sông Hậu 1... là một trong những điểm sáng của nền kinh tế 9 tháng đầu năm 2022.

Ngày 1/0, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương và Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2022.

Đưa vào vận hành NMNĐ Thái Bình 2, Sông Hậu 1 là điểm sáng của nền kinh tế
Thủ tướng phát biểu kết luận Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương và Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2022

Các ý kiến tại phiên họp thống nhất đánh giá, 9 tháng qua, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động nhanh, khác thường, khó lường, chưa có tiền lệ; ngay như vấn đề thiên tai, bão lũ cũng bất thường, phức tạp. Tuy nhiên, 9 tháng qua, chúng ta đã hoàn thành những mục tiêu lớn đề ra: Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc phòng, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; làm tốt công tác đối ngoại, phù hợp tình hình quốc tế.

Các đại biểu đánh giá, các diễn biến của tình hình thế giới và động thái điều chỉnh chính sách của các nước được theo dõi sát sao để kịp thời có các giải pháp tiền tệ, tài khóa, điều hành giá, giải pháp vĩ mô nhằm ứng phó đồng bộ, phù hợp với tình hình. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức nhiều hội nghị để vừa thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ thường xuyên, vừa tập trung giải quyết những khó khăn nội tại của nền kinh tế, xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài, cũng như các biện pháp bảo đảm sức khỏe nhân dân, vừa phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, vừa ứng phó với những tình huống mới, bất ngờ, phát sinh, đồng thời góp phần ổn định tâm lý thị trường, nhà đầu tư, doanh nghiệp.

Các ý kiến cũng chỉ rõ các khó khăn, vướng mắc, kinh nghiệm quý, bài học hay và đề xuất nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực, sát thực tiễn.

Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành và Văn phòng Chính phủ nghiêm túc tiếp thu các ý kiến, tổng hợp, hoàn thiện các báo cáo và dự thảo Nghị quyết phiên họp để sớm trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành. Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành nghiên cứu kỹ các ý kiến tại Hội nghị, tập trung rà soát, chủ động hoặc đề xuất hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật liên quan và xử lý, giải quyết kịp thời các kiến nghị cụ thể của các địa phương.

Nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài, các dự án yếu kém được tập trung xử lý, có hiệu quả

Nhấn mạnh một số nội dung, Thủ tướng nêu rõ, nhìn chung, tình hình kinh tế-xã hội tháng 9, quý III và 9 tháng phục hồi tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện, khởi sắc trên nhiều lĩnh vực. Trong đó có một số kết quả nổi bật.

Chúng ta tiếp tục kiểm soát tốt dịch COVID-19 trên toàn quốc; tổ chức thành công chiến dịch tiêm vaccine, bảo đảm khoa học, hiệu quả, đến ngày 29/9, cả nước đã tiêm được trên 260 triệu liều, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về số liều vaccine trung bình mỗi người dân nhận được; tỉ lệ chuyển nặng, tử vong rất thấp so với thế giới (0,4% so với 1,1% bình quân toàn cầu); không để dịch chồng dịch; tạo nền tảng quan trọng để phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.

Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Lạm phát được kiểm soát ở mức 2,73% trong khi chịu sức ép lạm phát thế giới rất cao. Tỉ giá, lãi suất, thị trường ngoại tệ cơ bản ổn định. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, có mặt được cải thiện hơn.

Thu ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt 94% dự toán, tăng 22%. Xuất nhập khẩu đạt gần 559 tỷ USD, tăng 14,2%, xuất siêu 6,52 tỷ USD. An ninh năng lượng (điện, xăng, dầu), an ninh lương thực được bảo đảm (xuất khẩu trên 5,4 triệu tấn gạo, xuất khẩu nông sản đạt 40,8 tỷ USD). Thị trường lao động phục hồi tốt; cơ bản đáp ứng nhu cầu lao động (lao động khu vực công nghiệp tăng 21,8% so cùng kỳ).

Tăng trưởng kinh tế phục hồi mạnh mẽ. GDP 9 tháng tăng 8,83% (cao nhất cùng kỳ từ năm 2011 đến nay). Cả 3 khu vực đều phát triển tốt: Nông nghiệp tăng 2,99%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,44%; dịch vụ tăng 10,57%. Nhiều địa phương đạt mức tăng trưởng cao, đặc biệt là có 10 địa phương có tốc độ tăng trưởng trên 11%, gồm Bắc Giang (23,98%), Khánh Hòa (20,48%), Cần Thơ (17,57%), Đà Nẵng (16,76%), Hậu Giang (14,74%), Thanh Hóa (14,24%), Lâm Đồng (14,18%), Quảng Nam (13,15%), Hải Phòng (12,06%), Tây Ninh (11,52%). Hai đầu tàu kinh tế gồm TPHCM đạt 9,97% và Hà Nội đạt 9,69%.

Vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh; 9 tháng đạt trên 2,1 triệu tỷ đồng, tăng 12,5% so cùng kỳ. Vốn FDI thực hiện đạt trên 15,4 tỷ USD (cao nhất cùng kỳ trong 5 năm qua), tăng 16,3%.

Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng khởi sắc. Có trên 163.000 doanh nghiệp thành lập mới và trở lại hoạt động, tăng 38,6%, gấp 1,44 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường (112,7 nghìn doanh nghiệp). Tổng số vốn đăng ký mới và đăng ký bổ sung trên 3,9 triệu tỷ đồng, tăng 36%. Có 82,6% doanh nghiệp chế biến chế tạo lạc quan, đánh giá tích cực về tình hình sản xuất, kinh doanh quý IV so với quý III/2022.

An sinh xã hội được bảo đảm; đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được nâng lên. Từ tháng 7/2021 đến nay, đã hỗ trợ trên 85.000 tỷ đồng cho trên 55 triệu lượt người và gần 856.000 người sử dụng lao động gặp khó khăn theo các Nghị quyết số 68, 126, 116 của Chính phủ.

Thu nhập bình quân của lao động là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 1,6 triệu đồng so với cùng kỳ. Theo kết quả khảo sát sơ bộ, 83,2% số hộ dân có thu nhập tăng hoặc không đổi so với cùng kỳ. Tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm; lực lượng lao động tăng (9 tháng là 51,6 triệu người, tăng 1,2 triệu so với cùng kỳ).

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu được chú trọng. Tổ chức thành công các sự kiện, ngày lễ lớn của đất nước; nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao diễn ra sôi động, lành mạnh, hiệu quả. Gần nhất, Nghệ thuật Xòe Thái được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại thứ 14 tại Việt Nam. Công tác phòng, chống thiên tai được chỉ đạo quyết liệt.

Tổ chức tốt kỳ thi trung học phổ thông, xét tuyển đại học, khai giảng năm học mới 2022-2023. Nhiều học sinh Việt Nam đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế năm 2022. Ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ, Việt Nam đứng thứ 63/113 thế giới và thứ 4 Đông Nam Á về chỉ số toàn cầu về Hệ thống khởi nghiệp kỹ thuật số của ADB.

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, hoàn thiện thể chế, pháp luật, xây dựng quy hoạch, cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh. Đã cơ bản hoàn thành rà soát, ban hành các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ.

Công tác thông tin truyền thông được tăng cường; đã kiểm soát, ngăn chặn, xử lý nhiều thông tin giả, xấu, độc, phản cảm, lừa đảo trên mạng, chống phá Đảng và Nhà nước, xử lý nghiêm các vi phạm. Các cơ quan truyền thông, đội ngũ những người làm báo dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương, sự quản lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông, đã vào cuộc rất tích cực, nhất là trong phản bác các thông tin xấu độc và thông tin về người tốt, việc tốt.

Nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài, các dự án yếu kém được tập trung xử lý, có hiệu quả, báo cáo cấp có thẩm quyền trên tinh thần không hợp thức hóa cái sai nhưng có giải pháp để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, giải phóng các nguồn lực, như đưa vào vận hành Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, Sông Hậu 1; triển khai xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém, Nhiệt điện Long Phú 1, Ô Môn, Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, Lào Cai, cơ sở 2 của các Bệnh viện Bạch Mai, Việt – Đức…

Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại đạt nhiều kết quả quan trọng. Chính trị ổn định; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng lên.

Về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục chủ động, quyết liệt xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ được giao. Một số kết quả cụ thể như đã ban hành 15/17 văn bản cụ thể hóa Nghị quyết 11/NQ-CP; đã giải ngân đạt gần 60,8 nghìn tỷ đồng gồm vay ưu đãi qua Ngân hàng Chính sách xã hội 10.411 tỷ đồng, hỗ trợ tiền thuê nhà 3.545 tỷ đồng cho hơn 5 triệu lao động, giảm thuế, gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất 39.422 tỷ đồng; hỗ trợ 2% lãi suất cho khoảng 9.800 tỷ đồng dư nợ tín dụng, với số tiền là 13,5 tỷ đồng; đã giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương thuộc Chương trình với tổng số vốn 147.138 tỷ đồng cho 94 nhiệm vụ, dự án.

Về 3 Chương trình mục tiêu quốc gia, đã ban hành 66 văn bản quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện; hầu hết các địa phương đã xây dựng, hoàn thiện văn bản quản lý, điều hành; 47/52 địa phương hoàn thành giao kế hoạch vốn.

Đưa vào vận hành NMNĐ Thái Bình 2, Sông Hậu 1 là điểm sáng của nền kinh tế
Thủ tướng: Việt Nam được dự báo thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực

6 bài học kinh nghiệm từ thực tiễn

Nhiều tổ chức quốc tế, các chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá tích cực, lạc quan về Việt Nam. Hãng S&P nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên BB+ với triển vọng “ổn định”. Hãng Fitch Ratings xếp hạng BB với triển vọng “tích cực”. Hãng Moody’s xếp hạng Ba2 với triển vọng “ổn định”. Hãng Nikkei đánh giá Chỉ số phục hồi COVID-19 của Việt Nam tiếp tục được nâng hạng, xếp thứ 2 thế giới.

Việt Nam được dự báo thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam Á trong năm 2022 và 2023 (Moody‘s, WB, IMF, ADB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 lần lượt là 8,5%, 7,2%, 7%, 6,5%).

Thủ tướng nêu rõ, những kết quả quan trọng, toàn diện đạt được trên các lĩnh vực nêu trên là nhờ các nhân tố chủ yếu sau đây: Sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự đồng hành, phối hợp, ủng hộ của Quốc hội và sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; sự chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, kịp thời, hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; sự tin tưởng, ủng hộ, tham gia tích cực của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, đoàn thể nhân dân; sự giúp đỡ, hỗ trợ hiệu quả của bạn bè quốc tế.

Thủ tướng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức trong bối cảnh nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, quy mô còn khiêm tốn, khả năng chống chịu thì có hạn, cho nên chỉ cần một biến động nhỏ ở bên ngoài có thể tác động lớn đến trong nước.

Tình hình quốc tế tiếp tục diễn nhanh, biến phức tạp. Sức ép lạm phát ở trong nước vẫn còn tiềm ẩn, gây nguy cơ bất ổn vĩ mô. Giải ngân đầu tư công chậm được cải thiện; việc triển khai một số chính sách của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia còn hạn chế. Hoạt động sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực còn gặp nhiều khó khăn. Thị trường bất động sản tiềm ẩn rủi ro, trầm lắng; nợ xấu có xu hướng tăng. Nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu. Vốn FDI đăng ký cấp mới 9 tháng chỉ bằng 57% cùng kỳ.

Đời sống của một bộ phận người dân vẫn còn khó khăn; thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, thiệt hại lớn; số ca mắc COVID-19 tăng gần đây; tiêm vaccine tại một số nơi chưa đạt mục tiêu. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm ở một số địa bàn còn những khó khăn, thách thức, nhất là an ninh phi truyền thống, an ninh mạng…

Đưa vào vận hành NMNĐ Thái Bình 2, Sông Hậu 1 là điểm sáng của nền kinh tế
Các đại biểu tham dự tại điểm cầu trụ sở Chính phủ

Qua thực tiễn, Thủ tướng chỉ rõ các bài học kinh nghiệm:

Thứ nhất, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; kịp thời thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội; giữ vững bản lĩnh, bình tĩnh, sáng suốt, linh hoạt, không cầu toàn, không nóng vội, không chuyển trạng thái một cách đột ngột, tổ chức thực hiện thống nhất, xuyên suốt, quyết liệt, kịp thời, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm.

Thứ hai, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường, lấy khó khăn, thách thức là động lực vươn lên; kiên định mục tiêu nhưng thích ứng linh hoạt, quyết liệt, hiệu quả.

Thứ ba, theo dõi chặt chẽ, nắm chắc diễn biến tình hình, nâng cao năng lực phân tích, dự báo, chủ động ứng phó các tình huống phát sinh, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả. Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

Thứ tư, chú trọng hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách; chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo điều hành; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh phân công, phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực, nâng cao năng lực cán bộ thực thi và phân bổ nguồn lực phù hợp.

Thứ năm, tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch; đẩy mạnh tiêm vaccine an toàn, khoa học, hiệu quả.

Thứ sáu, chủ động thông tin kịp thời, khách quan về tình hình kinh tế-xã hội, củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp, sự sáng tạo và đồng thuận xã hội.

Về quan điểm chỉ đạo điều hành thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu bám sát Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, kế hoạch 5 năm, chiến lược 10 năm, các Kết luận, Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Đại hội đảng bộ địa phương; cụ thể hóa thành các chương trình, nhiệm vụ, giải pháp, chính sách.

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Tăng cường huy động các nguồn lực, trong đó nội lực là cơ bản, là chiến lược, lâu dài, quyết định; ngoại lực là quan trọng, đột phá.

Kế thừa, phát huy và nhân rộng những kinh nghiệm quý, bài học hay, mô hình tốt; khắc phục tồn tại, hạn chế, yếu kém. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường; nêu gương; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; kịp thời báo cáo những vướng mắc, vấn đề vượt thẩm quyền.

Tăng cường đoàn kết, thống nhất; nâng cao hiệu quả phối hợp, liên kết nội bộ và giữa các bộ, ngành, địa phương, vùng; phát huy cao nhất tiềm năng, thế mạnh từng địa phương, ngành, vùng, đồng thời huy động hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mỗi vùng, của cả nước.

Bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Giữ gìn kỷ luật, kỷ cương hành chính; bám sát thực tiễn để chỉ đạo điều hành chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Động viên, khích lệ, khen thưởng kịp thời; kỷ luật nghiêm minh.

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, phân bổ nguồn lực phù hợp và nâng cao năng lực cán bộ thực thi, đề cao vai trò người đứng đầu, đồng thời phát huy tính sáng tạo, chủ động, linh hoạt của cấp dưới. Đẩy mạnh hơn nữa phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Đưa vào vận hành NMNĐ Thái Bình 2, Sông Hậu 1 là điểm sáng của nền kinh tế
Các địa phương tham dự qua hình thức trực tuyến

Những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian ‘nước rút’

Thủ tướng đặc biệt lưu ý quý IV/2022 có ý nghĩa quan trọng, là thời gian “nước rút” để “về đích”. Vì vậy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức; tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời, bám sát tình hình thực tiễn, có giải pháp linh hoạt, phù hợp, sáng tạo, hiệu quả theo tinh thần chủ đề năm 2022 là "Đoàn kết kỷ cương, chủ động thích ứng, an toàn hiệu quả, phục hồi phát triển"

Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, Thủ tướng yêu cầu tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19. Đẩy mạnh việc tiêm vaccine; bảo đảm đủ thuốc, trang thiết bị y tế; khắc phục bằng được tình trạng thiếu thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế ở một số nơi như vừa qua; giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các dự án xây dựng bệnh viện kéo dài.

Bảo đảm chất lượng, tiến độ các đề án, báo cáo trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội nghị Trung ương và kỳ họp Quốc hội.

Kiên trì, nhất quán, xuyên suốt, ưu tiên mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế theo Chỉ thị 15/CT-TTg. Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt; phối hợp chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả và các chính sách khác. Bảo đảm an ninh, an toàn về tiền tệ, tín dụng, tài chính, nợ công, năng lượng, lương thực, thông tin; tăng cường quản lý, kiểm soát giá cả hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, nhất là dịp cuối năm, lễ, Tết...; theo dõi sát tình hình, diễn biến thế giới, khu vực, tăng cường phân tích, dự báo, kịp thời có giải pháp kịp thời, phù hợp.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, triển khai chương trình đầu tư công trung hạn, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia theo tinh thần Nghị quyết số 124/NQ-CP và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại hội nghị gần đây. Thủ tướng nhấn mạnh, vốn đầu tư công là nguồn lực rất lớn, việc giải ngân đầu tư công là một trong những chính sách tài khóa có rất nhiều ý nghĩa quan trọng, vừa tạo công ăn việc làm, tạo dư địa, không gian phát triển mới, tạo sản phẩm xã hội, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, góp phần kiểm soát lạm phát, giảm áp lực lên điều hành chính sách tiền tệ…

Thúc đẩy cơ cấu lại, phát triển mạnh các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Theo dõi sát diễn biến thị trường, bảo đảm cân đối cung cầu, ổn định giá cả, không để thiếu hàng, đầu cơ, tăng giá bất hợp lý; tăng cường chống buôn lậu, gian lận thương mại. Phát triển mạnh thị trường trong nước; tăng cường xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu. Chú trọng phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định.

Thủ tướng phân tích thêm một số yếu tố tác động tới Việt Nam như cạnh tranh chiến lược, chính sách phòng, chống dịch, lạm phát tăng cao, giá nguyên liệu đầu vào tăng. Đồng USD tăng giá làm giảm giá đồng tiền nhiều nước, trong đó có đồng tiền của Việt Nam, tác động tích cực tới xuất khẩu nhưng tác động tiêu cực tới nhập khẩu. Do đó, chúng ta phải đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng, đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng và giảm nhập khẩu, tăng tổng cung và tổng cầu trong nước; các bộ, ngành tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo, các địa phương cùng vào cuộc, động viên các doanh nghiệp trong nước tham gia, phối hợp với các doanh nghiệp FDI để cùng làm việc này.

Cùng với đó, đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược; tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật, cải cách hành chính, lập quy hoạch; tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng; tạo nền tảng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và sự phát triển bền vững của nền kinh tế

Thực hiện tốt các chính sách đầu tư, phát triển văn hóa ngang tầm kinh tế và chính trị, xác định văn hóa là một nguồn lực phát triển; đặc biệt quan tâm các chính sách xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, người yếu thế, người có công; chú trọng công tác bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu.

Tiếp tục giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chuẩn bị chu đáo các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước; tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do (FTA); làm tốt công tác bảo hộ công dân. Đẩy mạnh thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận xã hội.

Hải Anh

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,600 ▲200K 69,100 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 68,500 ▲200K 69,000 ▲200K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,746.30 15,905.35 16,416.24
CAD 17,788.18 17,967.86 18,545.00
CHF 26,675.39 26,944.84 27,810.33
CNY 3,359.56 3,393.49 3,503.02
DKK - 3,529.14 3,664.43
EUR 26,123.05 26,386.92 27,556.48
GBP 30,490.18 30,798.16 31,787.43
HKD 3,088.24 3,119.43 3,219.63
INR - 296.48 308.35
JPY 158.88 160.48 168.16
KRW 15.92 17.68 19.29
KWD - 80,418.21 83,636.45
MYR - 5,184.94 5,298.23
NOK - 2,247.55 2,343.06
RUB - 256.11 283.53
SAR - 6,591.62 6,855.41
SEK - 2,284.40 2,381.48
SGD 17,924.11 18,105.16 18,686.71
THB 601.12 667.91 693.52
USD 24,590.00 24,620.00 24,960.00
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,852 15,952 16,402
CAD 17,971 18,071 18,621
CHF 26,899 27,004 27,804
CNY - 3,389 3,499
DKK - 3,536 3,666
EUR #26,280 26,315 27,575
GBP 30,854 30,904 31,864
HKD 3,092 3,107 3,242
JPY 160.36 160.36 168.31
KRW 16.56 17.36 20.16
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,247 2,327
NZD 14,545 14,595 15,112
SEK - 2,268 2,378
SGD 17,909 18,009 18,609
THB 626 670.34 694
USD #24,535 24,615 24,955
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24570 24620 24960
AUD 15886 15936 16338
CAD 18007 18057 18462
CHF 27134 27184 27596
CNY 0 3391.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26482 26532 27034
GBP 31025 31075 31535
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14585 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18204 18204 18555
THB 0 638.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 16:00