Doanh nghiệp ‘ngủ đông’ chờ qua đại dịch

05:57 | 04/05/2020

237 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Bà Huệ, giám đốc một công ty truyền thông đã cho phần lớn nhân viên nghỉ không lương vì khách hàng cắt tất cả hợp đồng quảng cáo.

Bà Huệ vừa trả văn phòng thuê tại quận Bình Thạnh (TP HCM). Bà và một số nhân viên còn lại làm tại nhà, công việc chính là viết email tìm khách hàng mới và lên kế hoạch trở lại sau dịch. Các khoản hỗ trợ xăng xe, cơm trưa và quà tặng sinh nhật cho nhân viên đều phải cắt giảm.

"Không chật vật như ngành sản xuất nhưng ba tháng không có thu nhập cũng đủ khiến tôi kiệt quệ. Tháng tới nếu tình hình không khá hơn thì tôi buộc chấm dứt hợp đồng lao động với vài nhân sự còn lại, tạm ngừng kinh doanh để bớt thiệt hại", bà Huệ nói.

Bà Tô, chủ một hãng vận tải cũng cho biết vừa trải qua giai đoạn "vật vã" vì lệnh cấm vận chuyển hành khách liên tỉnh. Gần một tháng không có doanh thu, hãng phải đàm phán với bến xe để được miễn chi phí thuê kios bán vé và giảm thu nhập theo hiệu quả kinh doanh của tài xế. Tuy nhiên, những chi phí cố định khác như phí nằm bãi 40.000 đồng một xe mỗi ngày, tiền thuê mặt bằng văn phòng dọc hành trình TP HCM – Kiên Giang, lãi ngân hàng... cộng lại cũng lên đến vài trăm triệu.

Khi mảng vận tải liên tỉnh được mở lại vào cuối tháng 4, hãng lấy doanh thu từ 50 xe khách bù đắp chi phí nằm bãi của các xe hợp đồng với công ty lữ hành. Mảng này thất thu ngay sau Tết Nguyên đán nên tổn thất vượt cả tỷ đồng.

"Nhờ có tiền tiết kiệm và lãi mấy năm trước để xoay vòng, chứ không chỉ có cách đóng cửa", bà nói.

Trong khi hai doanh nghiệp này đã hoặc đang suy tính kế hoạch ngừng kinh doanh thì hàng chục nghìn doanh nghiệp khác đã tìm đến phương án này.

Theo số liệu của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, bình quân mỗi tháng đầu năm có gần 10.440 doanh nghiệp rút khỏi thị trường. 16 trong 17 lĩnh vực có số lượng doanh nghiệp ngừng kinh doanh tăng hơn so với cùng kỳ, trong đó nhiều nhất là doanh nghiệp bất động sản, dịch vụ lưu trú – ăn uống, du lịch, vận tải...

Giai đoạn 2015-2019, số doanh nghiệp đăng ký ngừng kinh doanh có thời hạn bốn tháng đầu năm tăng khoảng 20% so với cùng kỳ. Trong khi năm nay tăng đến 33,6% và lập kỷ lục mới, thể hiện ảnh hưởng trực tiếp của Covid-19 đến doanh nghiệp.

"Doanh nghiệp đang có xu hướng chờ đợi, "ngủ đông" để nghe ngóng và xem xét diễn biến của dịch bệnh trước khi quyết định tiếp tục kinh doanh hay đóng cửa hoàn toàn. Điều này thể hiện qua việc số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh ngắn hạn tăng mạnh, trong khi doanh nghiệp giải thể lại giảm", đại diện Cục Quản lý đăng ký kinh doanh nhận định.

Doanh nghiệp ‘ngủ đông’ chờ qua đại dịch
Bến xe tại TP HCM vắng khách trước ngày giãn cách xã hội. Ảnh: Quỳnh Trần.

Trong báo cáo của Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) gửi Thủ tướng vào đầu tháng trước, gần 85% doanh nghiệp cho biết thị trường tiêu thụ bị thu hẹp và 60% thiếu vốn, đứt dòng tiền kinh doanh. Nếu tình hình dịch bệnh kéo dài, chỉ khoảng 30% doanh nghiệp duy trì được hoạt động không quá ba tháng và 50% doanh nghiệp trụ được nửa năm.

"Chưa ai dự báo lúc nào dịch bệnh qua đi, nhưng một điều chắc chắn là hệ lụy, ảnh hưởng tới nền kinh tế sẽ còn kéo dài và không thể khắc phục được ngay khi dịch bệnh kết thúc. Khó khăn với doanh nghiệp còn chất chồng trước mắt", ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI nói.

Tuy nhiên, đại diện Cục Quản lý đăng ký kinh doanh cho rằng, Covid-19 cũng là dịp để doanh nghiệp nhìn rõ những điểm mạnh yếu, rà soát lại định hướng hoạt động và tìm ra hướng đi mới phù hợp với nhu cầu thị trường. Các doanh nghiệp nhạy bén có thể nắm bắt cơ hội để chuyển từ trạng thái đóng băng sang tăng trưởng nóng khi dịch được kiểm soát.

Trong bối cảnh dịch diễn biến phức tạp, vẫn có hơn 37.000 doanh nghiệp được thành lập mới. Số lượng doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong bốn tháng đầu năm tăng 2%, trong khi năm ngoái con số này là 52%. Nhà đầu tư có xu hướng thu hẹp quy mô hoạt động để đảm bảo an toàn, nhưng dòng vốn bổ sung vào nền kinh tế trong giai đoạn này cũng đạt hơn 1,1 triệu tỷ đồng.

Theo VNE

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,100 ▼350K 74,050 ▼350K
Nguyên liệu 999 - HN 73,000 ▼350K 73,950 ▼350K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 25/04/2024 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 81.700 ▼800K 84.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,275 ▼45K 7,490 ▼35K
Trang sức 99.9 7,265 ▼45K 7,480 ▼35K
NL 99.99 7,270 ▼45K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,250 ▼45K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
Miếng SJC Thái Bình 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Nghệ An 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Hà Nội 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Cập nhật: 25/04/2024 13:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,700 ▼800K 84,000 ▼500K
SJC 5c 81,700 ▼800K 84,020 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,700 ▼800K 84,030 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,000 ▼100K 74,700 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,000 ▼100K 74,800 ▼200K
Nữ Trang 99.99% 72,800 ▼100K 73,900 ▼200K
Nữ Trang 99% 71,168 ▼198K 73,168 ▼198K
Nữ Trang 68% 47,907 ▼136K 50,407 ▼136K
Nữ Trang 41.7% 28,469 ▼84K 30,969 ▼84K
Cập nhật: 25/04/2024 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,095.55 16,258.14 16,779.72
CAD 18,066.09 18,248.58 18,834.02
CHF 27,070.48 27,343.92 28,221.15
CNY 3,431.82 3,466.48 3,578.23
DKK - 3,577.53 3,714.53
EUR 26,481.22 26,748.71 27,933.23
GBP 30,827.96 31,139.35 32,138.35
HKD 3,160.58 3,192.50 3,294.92
INR - 303.87 316.02
JPY 158.45 160.06 167.71
KRW 15.94 17.71 19.32
KWD - 82,205.72 85,492.23
MYR - 5,253.88 5,368.47
NOK - 2,265.78 2,361.97
RUB - 261.72 289.72
SAR - 6,750.57 7,020.45
SEK - 2,288.25 2,385.40
SGD 18,184.25 18,367.93 18,957.20
THB 604.07 671.19 696.90
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,236 16,336 16,786
CAD 18,252 18,352 18,902
CHF 27,252 27,357 28,157
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,587 3,717
EUR #26,664 26,699 27,959
GBP 31,196 31,246 32,206
HKD 3,161 3,176 3,311
JPY 159.32 159.32 167.27
KRW 16.6 17.4 20.2
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,267 2,347
NZD 14,803 14,853 15,370
SEK - 2,280 2,390
SGD 18,161 18,261 18,991
THB 628.99 673.33 696.99
USD #25,123 25,123 25,433
Cập nhật: 25/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,175.00 25,177.00 25,477.00
EUR 26,671.00 26,778.00 27,961.00
GBP 31,007.00 31,194.00 32,152.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,297.00
CHF 27,267.00 27,377.00 28,214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16,215.00 16,280.00 16,773.00
SGD 18,322.00 18,396.00 18,933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,215.00 18,288.00 18,819.00
NZD 14,847.00 15,342.00
KRW 17.67 19.30
Cập nhật: 25/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25125 25125 25477
AUD 16271 16321 16824
CAD 18292 18342 18798
CHF 27437 27487 28049
CNY 0 3458.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26860 26910 27621
GBP 31315 31365 32018
HKD 0 3140 0
JPY 160.88 161.38 165.89
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14841 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18404 18454 19016
THB 0 641.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8180000 8180000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 13:00