Điện hạt nhân tại Việt Nam: Kỳ vọng từ cơ chế chính sách giá và Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi)

15:26 | 02/06/2025

22,542 lượt xem
|
(PetroTimes) - Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu và nhu cầu tiêu thụ điện năng tại Việt Nam ngày càng tăng cao, điện hạt nhân đang được quyết tâm đầu tư như là một giải pháp quan trọng đảm bảo cung cấp năng lượng ổn định và giảm phát thải carbon. Dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) đang trình Quốc hội là tín hiệu rõ nét cho thấy Việt Nam đang thúc đẩy tạo hành lang pháp lý nhằm tái khởi động chương trình điện hạt nhân, sau hơn một thập kỷ tạm dừng.

Vốn và cơ chế chính sách giá - chìa khóa cho phát triển điện hạt nhân

Phát triển điện hạt nhân đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khổng lồ. Theo ước tính, một nhà máy điện hạt nhân công suất khoảng 1.000 MW cần nguồn vốn từ 5 đến 10 tỷ USD, tùy thuộc vào công nghệ, địa điểm xây dựng và điều kiện kỹ thuật. Với mục tiêu phát triển các tổ máy có tổng công suất khoảng 4.000 MW vào giai đoạn 2030-2035 như dự kiến trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, tổng nhu cầu đầu tư có thể lên tới hàng chục tỷ USD.

Trong bối cảnh đó, cùng với nguồn vốn ngân sách, sẽ phải giải bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài, hợp tác công - tư (PPP), hoặc các hình thức tài chính sáng tạo khác như vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, yếu tố quyết định để các nhà đầu tư quốc tế yên tâm rót vốn vẫn là một khung pháp lý minh bạch, ổn định và phù hợp với thông lệ quốc tế - điều mà Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) đang hướng đến.

Bên cạnh đó, cơ chế chính sách giá cho điện hạt nhân cũng cần phải được tính đến để thu hút các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực này.

Điện hạt nhân tại Việt Nam: Kỳ vọng từ cơ chế chính sách giá và Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi)
Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long: Xây dựng cơ chế giá điện phản ánh đúng chi phí sản xuất, điều chỉnh giá điện sao cho bù đắp đủ chi phí đầu tư ban đầu và vận hành, tạo sự công bằng giữa lợi ích của người tiêu dùng và các nhà sản xuất điện

Về vấn đề này, trao đổi với PetroTimes, chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, việc phát triển điện hạt nhân đòi hỏi sự cam kết và hỗ trợ liên tục từ Chính phủ, bao gồm việc thiết lập các chính sách ưu đãi, cơ chế tài chính linh hoạt và hành lang pháp lý rõ ràng để thu hút đầu tư, như Hàn Quốc và Pháp đã thành công nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ điện hạt nhân.

Bên cạnh đó, việc thiết lập giá điện hạt nhân cạnh tranh so với các nguồn năng lượng khác sẽ khuyến khích đầu tư và đảm bảo tính bền vững cho ngành năng lượng.

Cũng theo PGS.TS Ngô Trí Long, chính sách giá điện hạt nhân còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững, với các tác động kinh tế - xã hội đáng kể. Cụ thể, việc điều chỉnh giá điện hạt nhân có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sinh hoạt của hộ gia đình và chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), khi giá điện bán lẻ bình quân tăng 3% vào ngày 4/5/2023, các hộ tiêu thụ dưới 50 kWh/tháng phải trả thêm khoảng 2.500 đồng/hộ; các hộ sử dụng từ 101-200 kWh/tháng có mức tăng là 11.100 đồng/hộ. Về phía doanh nghiệp, chi phí điện tăng thêm trung bình mỗi tháng cho khách hàng sản xuất là 307.000 đồng/hộ và cho khách hàng kinh doanh dịch vụ là 141.000 đồng/hộ. Mặc dù điện hạt nhân yêu cầu vốn đầu tư ban đầu lớn nhưng chi phí vận hành và nhiên liệu thấp, giúp ổn định giá điện trong dài hạn. Điều này có thể giảm áp lực tăng giá điện, hỗ trợ doanh nghiệp kiểm soát chi phí sản xuất và góp phần ổn định chi phí sinh hoạt cho người dân.

Từ những dẫn chứng trên, PGS.TS Ngô Trí Long đưa ra một số khuyến nghị, cụ thể: Xây dựng cơ chế giá điện phản ánh đúng chi phí sản xuất, điều chỉnh giá điện sao cho bù đắp đủ chi phí đầu tư ban đầu và vận hành, tạo sự công bằng giữa lợi ích của người tiêu dùng và các nhà sản xuất điện; Áp dụng chính sách giá ưu đãi trong giai đoạn đầu, thiết lập mức giá ưu đãi, tương tự như mô hình FIT, để kích thích đầu tư vào các dự án điện hạt nhân và đảm bảo thu hồi vốn ban đầu; Ký kết hợp đồng mua bán điện dài hạn (PPA) với giá cố định giúp giảm thiểu rủi ro biến động giá điện và tạo sự ổn định về doanh thu cho các nhà đầu tư; Giảm dần trợ giá cho năng lượng hóa thạch, điều chỉnh chính sách trợ giá nhằm tạo điều kiện cạnh tranh công bằng cho các nguồn năng lượng sạch, bao gồm điện hạt nhân; Chú trọng đến tác động kinh tế - xã hội, cân nhắc sự ảnh hưởng của chính sách giá điện đến chi phí sinh hoạt của người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra các biện pháp hỗ trợ kịp thời.

“Việc phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam sẽ đóng góp quan trọng vào việc đảm bảo an ninh năng lượng và đáp ứng mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Khi được thiết kế hợp lý và triển khai minh bạch, chính sách giá điện hạt nhân không chỉ hỗ trợ ổn định chi phí cho người dân và doanh nghiệp mà còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững của quốc gia”, PGS.TS Ngô Trí Long nhấn mạnh.

Kỳ vọng từ Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi)

Luật Năng lượng nguyên tử hiện hành được ban hành từ năm 2008, đến nay đã bộc lộ nhiều điểm bất cập. Việc sửa đổi luật lần này không chỉ nhằm cập nhật các tiến bộ công nghệ, tiêu chuẩn an toàn quốc tế, mà còn thể hiện quyết tâm chính trị trong việc tái định hình chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.

Dự thảo Luật mới tập trung vào ba nhóm nội dung lớn, gồm: Cơ chế quản lý và giám sát an toàn hạt nhân; Khung pháp lý để phát triển và vận hành nhà máy điện hạt nhân; Cơ chế tài chính, bảo hiểm và trách nhiệm pháp lý. Đặc biệt, Luật dự kiến quy định rõ về mô hình tổ chức cơ quan quản lý độc lập với đơn vị khai thác, nhằm bảo đảm tính khách quan trong giám sát an toàn - một trong những yêu cầu then chốt từ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA).

Điện hạt nhân tại Việt Nam: Kỳ vọng từ cơ chế chính sách giá và Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi)
Điện hạt nhân tại Việt Nam kỳ vọng từ Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi)/Ảnh minh họa

Các chuyên gia đánh giá, nếu Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) được thông qua với các quy định chặt chẽ, minh bạch, Việt Nam có thể xây dựng niềm tin đối với cộng đồng quốc tế, mở ra khả năng hợp tác với các quốc gia có nền công nghiệp hạt nhân phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Nga, Mỹ. Đồng thời, Việt Nam cũng có thể tiếp cận các công nghệ hạt nhân thế hệ mới, đặc biệt là các lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR) với chi phí đầu tư thấp hơn và an toàn hơn.

Doanh nghiệp trong nước cũng kỳ vọng sẽ được tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp hạt nhân, từ sản xuất thiết bị, xây dựng, đến đào tạo nhân lực và vận hành. Đây là cơ hội để nâng cao năng lực khoa học - công nghệ trong nước, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội các địa phương được lựa chọn làm địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

“Việc sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử không đơn thuần là cập nhật một văn bản quy phạm pháp luật. Đó là bước khởi động quan trọng cho hành trình dài hạn, thận trọng nhưng đầy kỳ vọng của Việt Nam trong việc tái tiếp cận điện hạt nhân như một nguồn năng lượng sạch, ổn định và bền vững. Thách thức về vốn là rất lớn, nhưng với chính sách đúng đắn và tầm nhìn chiến lược, điện hạt nhân hoàn toàn có thể trở thành một trụ cột trong hệ thống năng lượng tương lai của quốc gia”, PGS.TS Ngô Trí Long nhận định

Huy Tùng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,100 149,100
Hà Nội - PNJ 146,100 149,100
Đà Nẵng - PNJ 146,100 149,100
Miền Tây - PNJ 146,100 149,100
Tây Nguyên - PNJ 146,100 149,100
Đông Nam Bộ - PNJ 146,100 149,100
Cập nhật: 24/11/2025 04:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,840 15,040
Miếng SJC Nghệ An 14,840 15,040
Miếng SJC Thái Bình 14,840 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,740 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,740 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,740 15,040
NL 99.99 14,040
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,040
Trang sức 99.9 14,300 14,930
Trang sức 99.99 14,310 14,940
Cập nhật: 24/11/2025 04:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,484 15,042
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,484 15,043
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 146 1,485
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 146 1,486
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,445 1,475
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,154 14,604
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,286 110,786
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,296 10,046
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,634 90,134
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,651 86,151
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,164 61,664
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cập nhật: 24/11/2025 04:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16466 16734 17309
CAD 18157 18433 19046
CHF 31928 32309 32959
CNY 0 3470 3830
EUR 29705 29977 31007
GBP 33702 34090 35024
HKD 0 3255 3458
JPY 161 165 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14468 15053
SGD 19622 19903 20437
THB 728 791 846
USD (1,2) 26088 0 0
USD (5,10,20) 26130 0 0
USD (50,100) 26158 26178 26392
Cập nhật: 24/11/2025 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,157 26,157 26,392
USD(1-2-5) 25,111 - -
USD(10-20) 25,111 - -
EUR 30,032 30,056 31,212
JPY 165.05 165.35 172.34
GBP 34,146 34,238 35,061
AUD 16,769 16,830 17,279
CAD 18,424 18,483 19,018
CHF 32,441 32,542 33,234
SGD 19,802 19,864 20,489
CNY - 3,662 3,761
HKD 3,335 3,345 3,430
KRW 16.59 17.3 18.58
THB 776.19 785.78 836.59
NZD 14,499 14,634 14,985
SEK - 2,721 2,802
DKK - 4,017 4,135
NOK - 2,539 2,614
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,963.28 - 6,694.07
TWD 760.63 - 915.72
SAR - 6,931.88 7,260.26
KWD - 83,772 88,633
Cập nhật: 24/11/2025 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,170 26,172 26,392
EUR 29,821 29,941 31,072
GBP 33,860 33,996 34,963
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 32,156 32,285 33,179
JPY 163.65 164.31 171.17
AUD 16,684 16,751 17,287
SGD 19,813 19,893 20,431
THB 791 794 829
CAD 18,376 18,450 18,984
NZD 14,498 15,004
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 24/11/2025 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26114 26114 26392
AUD 16620 16720 17653
CAD 18353 18453 19466
CHF 32327 32357 33943
CNY 0 3671.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29929 29959 31695
GBP 33941 33991 35754
HKD 0 3390 0
JPY 164.6 165.1 175.66
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14554 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19771 19901 20633
THB 0 755.9 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14780000 14780000 14980000
SBJ 13000000 13000000 14980000
Cập nhật: 24/11/2025 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,180 26,230 26,392
USD20 26,180 26,230 26,392
USD1 23,880 26,230 26,392
AUD 16,680 16,780 17,919
EUR 30,097 30,097 31,250
CAD 18,297 18,397 19,730
SGD 19,850 20,000 20,588
JPY 165.01 166.51 171.27
GBP 34,082 34,232 35,045
XAU 14,828,000 0 15,032,000
CNY 0 3,556 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 24/11/2025 04:45