Đề xuất giảm 50% thuế cho doanh nghiệp đầu tư trạm sạc xe buýt điện

16:49 | 07/11/2025

15 lượt xem
|
(PetroTimes) - Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng đề xuất nghiên cứu giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 5 năm đầu cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh trạm sạc điện dành cho xe buýt.
Đề xuất giảm 50% thuế TNDN cho doanh nghiệp đầu tư trạm sạc xe buýt điện
Tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng đô thị tại TP Hà Nội đạt 19,5%.

Năng lượng sạch cho giao thông xanh

Tại Diễn đàn “Năng lượng xanh - Thành phố sạch” ngày 7/11, ông Lê Văn Đạt, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng cho biết, Hà Nội là một trong những đô thị có mức độ ô nhiễm không khí cao nhất cả nước, với nồng độ bụi mịn PM₂.₅ trung bình năm 2023 đạt 40-50 µg/m³, vượt hơn 2-3 lần giới hạn khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là 15 µg/m³.

Nguồn gây ô nhiễm không khí chủ yếu ở Hà Nội là phát thải từ phương tiện giao thông đường bộ, theo thống kê chiếm 58-74% tùy từng thời điểm. Các nghiên cứu thống kê đã chỉ rõ rằng xe máy là một trong những nguồn phát thải chính tại đô thị, cụ thể xe máy gây ra 94% lượng hydrocarbon (HC), 87% khí CO, 57% NOx và 33% bụi mịn PM10 từ giao thông.

Hiện tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng đô thị tại TP Hà Nội đạt 19,5% (xe buýt khoảng 10%; Metro 1-2% và các loại hình khác 7-8%). Trong 18.612 xe vận tải taxi thì có hơn 8.800 xe điện.

Đề xuất giảm 50% thuế TNDN cho doanh nghiệp đầu tư trạm sạc xe buýt điện
Ông Lê Văn Đạt, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng: Tới 2030, tối thiểu 50% xe buýt sử dụng điện hoặc năng lượng xanh.

Trong khi đó, tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng đô thị tại TP HCM đạt 7% (bao gồm xe buýt; Metro và các loại hình khác). Trong tổng số 15.406 xe taxi thì có đến gần 12.000 xe điện.

Ông Đạt cho biết, lộ trình chuyển đổi năng lượng xanh ngành giao thông vận tải đã đặt mục tiêu: Tới 2025, 100% xe buýt thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh; Tới 2030, tối thiểu 50% xe buýt sử dụng điện hoặc năng lượng xanh, 100% thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh; Tới 2050, 100% xe buýt, xe taxi sử dụng điện, năng lượng xanh.

Các mục tiêu này yêu cầu bộ giải pháp giao thông xanh toàn diện, đồng bộ cần được áp dụng ngay từ bây giờ. Giải pháp đầu tiên là hướng tới chuyển đổi sang xe điện, quản lý phương tiện phát thải cao và sử dụng năng lượng sạch khác, chuyển đổi năng lượng và phương tiện, khuyến khích xe buýt CNG/LNG, xe Hydro (Hydrogen Fuel Cell).

Xa hơn nữa là hướng tới di chuyển bền vững, thông qua phát triển hệ thống giao thông công cộng, hiệu quả, giao thông phi cơ giới, thu phí phương tiện vào khu vực trung tâm, ứng dụng công nghệ và quy hoạch thông minh.

Để sớm hiện thực hóa các giải pháp, Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng đề xuất một số cơ chế, như nghiên cứu giảm thuế thu nhập doanh nghiệp 50% trong 5 năm đầu cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh trạm sạc điện dành cho xe buýt.

Học viện cũng kiến nghị nghiên cứu hỗ trợ lãi suất vốn vay cho dự án đầu tư hạ tầng, phương tiện vận tải công cộng bằng xe buýt sử dụng năng lượng sạch phù hợp với điều kiện của địa phương. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khai thác vận hành vận tải hành khách công cộng tại đô thị. Có chính sách ưu đãi đầu tư phát triển tuyến buýt đường thủy sử dụng năng lượng xanh phục vụ hành khách.

Đồng thời, ông Lê Văn Đạt cho rằng cần nghiên cứu triển khai đề án thu phí vào khu vực trung tâm thành phố, hạn ngạch ô tô và xe máy sử dụng nhiên liệu hoá thạch; Nghiên cứu tổ chức thực hiện thu phí vào khu vực trung tâm thành phố (VĐ1, VĐ2...) đối với các phương tiện kinh doanh vận tải sử dụng nhiên liệu hoá thạch, phương tiện kinh doanh vận tải có biển kiểm soát đăng ký ở địa phương khác hoạt động trên địa bàn.

Năng lượng tái tạo là hướng đi tất yếu

Bàn về vấn đề năng lượng xanh trong lộ trình chuyển dịch năng lượng, ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), cho biết, điều chỉnh Quy hoạch điện VIII đã đặt ra tầm nhìn dài hạn cho phát triển năng lượng tái tạo. Mục tiêu đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo chiếm tới 74-75% tổng công suất nguồn điện, trong đó điện gió và điện mặt trời giữ vai trò chủ đạo.

Đề xuất giảm 50% thuế TNDN cho doanh nghiệp đầu tư trạm sạc xe buýt điện
Ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo: Điện gió ngoài khơi là động lực thúc đẩy phát triển chuỗi công nghiệp hỗ trợ, cảng biển, logistics và các dịch vụ kỹ thuật cao.

Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đặt mục tiêu phát triển mạnh điện gió ngoài khơi. Dự kiến đến giai đoạn 2030-2035, tổng công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu đạt từ 6-17 GW, và định hướng đến năm 2050 có thể tăng lên 113-139 GW. Đây là quy mô lớn hàng đầu khu vực, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc trở thành trung tâm năng lượng sạch ở Đông Nam Á.

“Điện gió ngoài khơi không chỉ là nguồn năng lượng sạch mà còn là động lực thúc đẩy phát triển chuỗi công nghiệp hỗ trợ, cảng biển, logistics và các dịch vụ kỹ thuật cao, Việt Nam với bờ biển dài hơn 3.000 km, có nhiều khu vực có tốc độ gió ổn định, là điều kiện lý tưởng để phát triển ngành công nghiệp điện gió quy mô lớn”, ông Trang nhấn mạnh.

Cùng với đó, điện gió trên bờ và gần bờ cũng tiếp tục được mở rộng, với tổng công suất dự kiến đạt 26.000-38.000 MW vào năm 2030. Các dự án sẽ được ưu tiên bố trí tại những địa phương có tiềm năng gió tốt, đồng thời kết hợp phát triển kinh tế vùng, đặc biệt tại các khu vực còn khó khăn.

Theo đại diện Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, điều chỉnh Quy hoạch điện VIII không chỉ mở rộng quy mô các nguồn điện gió mà còn thúc đẩy toàn diện các loại hình năng lượng tái tạo khác như điện mặt trời, thủy điện nhỏ, điện sinh khối, hydrogen xanh và ammonia xanh. Mục tiêu là xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, linh hoạt, có khả năng tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn, bảo đảm vận hành an toàn, hiệu quả và kinh tế.

Đặc biệt, các mô hình điện mặt trời áp mái và điện mặt trời nổi trên mặt nước được khuyến khích phát triển nhằm tận dụng tối đa nguồn bức xạ mặt trời, đồng thời giảm áp lực lên hệ thống truyền tải. Cơ chế “tự sản - tự tiêu thụ” sẽ trở thành một cấu phần quan trọng trong chiến lược điện năng tái tạo của Việt Nam.

Dù tiềm năng rất lớn, nhưng ông Trang cho rằng thách thức trong phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam vẫn còn nhiều, đặc biệt là vấn đề đồng bộ chính sách, hạ tầng truyền tải và cơ chế giá điện. Việc phát triển nhanh các nguồn điện tái tạo nếu không song hành với nâng cấp lưới điện, hệ thống lưu trữ và cơ chế điều tiết hợp lý sẽ dễ dẫn đến mất cân bằng cung cầu và gây áp lực lên hệ thống điện quốc gia.

Để phát triển bền vững các nguồn năng lượng tái tạo, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa quy hoạch, pháp luật, đầu tư và công nghệ. Đặc biệt là chính sách khuyến khích khu vực tư nhân, cùng với sự đồng hành của cộng đồng quốc tế trong chuyển giao công nghệ và tài chính xanh.

Ngoài ra, ông Trang cũng đề nghị nâng cao ý thức sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất và sinh hoạt cũng là yếu tố quan trọng để giảm áp lực nhu cầu điện năng trong tương lai, góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0”.

Hà Nội tổng rà soát phương tiện cá nhân, chuẩn bị lộ trình “xanh hóa” giao thông Hà Nội tổng rà soát phương tiện cá nhân, chuẩn bị lộ trình “xanh hóa” giao thông
Trạm sạc V-Green “triệu đô” tại Hà Nội: Có thể sạc cùng lúc 70 xe điện, tài xế tấm tắc khen chất lượng và quy mô Trạm sạc V-Green “triệu đô” tại Hà Nội: Có thể sạc cùng lúc 70 xe điện, tài xế tấm tắc khen chất lượng và quy mô
Cấm xe xăng tại EU từ năm 2035: Cấm xe xăng tại EU từ năm 2035: "Không lùi bước"
Hoán cải xe xăng sang xe điện: Một ý tưởng hay, nhưng… Hoán cải xe xăng sang xe điện: Một ý tưởng hay, nhưng…

Phương Thảo

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,000 148,000
Hà Nội - PNJ 145,000 148,000
Đà Nẵng - PNJ 145,000 148,000
Miền Tây - PNJ 145,000 148,000
Tây Nguyên - PNJ 145,000 148,000
Đông Nam Bộ - PNJ 145,000 148,000
Cập nhật: 07/11/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,640 14,840
Miếng SJC Nghệ An 14,640 14,840
Miếng SJC Thái Bình 14,640 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,540 14,840
NL 99.99 13,870
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,870
Trang sức 99.9 14,130 14,730
Trang sức 99.99 14,140 14,740
Cập nhật: 07/11/2025 20:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,464 14,842
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,464 14,843
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,433 1,458
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,433 1,459
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,418 1,448
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,866 143,366
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,261 108,761
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,124 98,624
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,987 88,487
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,077 84,577
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,038 60,538
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cập nhật: 07/11/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16521 16789 17368
CAD 18105 18380 18994
CHF 31908 32289 32933
CNY 0 3470 3830
EUR 29726 29998 31021
GBP 33659 34047 34989
HKD 0 3252 3454
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14461 15050
SGD 19642 19923 20446
THB 728 792 845
USD (1,2) 26044 0 0
USD (5,10,20) 26085 0 0
USD (50,100) 26114 26133 26358
Cập nhật: 07/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,118 26,118 26,358
USD(1-2-5) 25,074 - -
USD(10-20) 25,074 - -
EUR 29,928 29,952 31,112
JPY 168.34 168.64 175.86
GBP 34,116 34,208 35,038
AUD 16,812 16,873 17,321
CAD 18,332 18,391 18,930
CHF 32,266 32,366 33,053
SGD 19,801 19,863 20,493
CNY - 3,645 3,744
HKD 3,331 3,341 3,426
KRW 16.71 17.43 18.73
THB 777.45 787.05 837.86
NZD 14,468 14,602 14,956
SEK - 2,706 2,787
DKK - 4,004 4,123
NOK - 2,541 2,617
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,903.02 - 6,626.2
TWD 768.46 - 925.94
SAR - 6,912.77 7,241.79
KWD - 83,600 88,470
Cập nhật: 07/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,135 26,138 26,358
EUR 29,794 29,914 31,044
GBP 33,939 34,075 35,042
HKD 3,318 3,331 3,438
CHF 32,043 32,172 33,062
JPY 167.84 168.51 175.69
AUD 16,732 16,799 17,335
SGD 19,823 19,903 20,442
THB 791 794 830
CAD 18,308 18,382 18,914
NZD 14,581 15,088
KRW 17.42 19.04
Cập nhật: 07/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26162 26162 26358
AUD 16703 16803 17729
CAD 18285 18385 19399
CHF 32145 32175 33761
CNY 0 3658.5 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29905 29935 31658
GBP 33954 34004 35765
HKD 0 3390 0
JPY 167.88 168.38 178.93
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14573 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19796 19926 20658
THB 0 757.8 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14640000 14640000 14840000
SBJ 14000000 14000000 14840000
Cập nhật: 07/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,130 26,180 26,358
USD20 26,130 26,180 26,358
USD1 23,848 26,180 26,358
AUD 16,745 16,845 17,981
EUR 30,042 30,042 31,391
CAD 18,226 18,326 19,661
SGD 19,869 20,019 20,507
JPY 168.32 169.82 174.64
GBP 34,045 34,195 35,008
XAU 14,638,000 0 14,842,000
CNY 0 3,543 0
THB 0 793 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/11/2025 20:00