Tăng lương tối thiểu

Cuộc tranh luận vẫn chưa ngã ngũ

17:09 | 28/09/2017

422 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau khi họp bàn và thống nhất, Hội đồng Tiền lương Quốc gia đã đề xuất điều chỉnh lương tối thiểu vùng năm 2018 là 6,5%. Trong buổi họp báo diễn ra ngày 20-9 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức, bà Tống Ngọc Minh, Cục trưởng Cục Quản lý lao động và tiền lương đã giải thích rõ về vấn đề này. 

Giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Ngay sau khi đề xuất điều chỉnh lương tối thiểu vùng năm 2018 lên đến 6,5% của Hội đồng Tiền lương Quốc gia được công bố, rất nhiều chuyên gia kinh tế đã không đồng tình với đề xuất này. Bởi đây sẽ trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp (DN), đồng thời làm giảm sức cạnh tranh cũng như “ăn mòn” nền kinh tế nội địa khi phải gánh thêm phần chi phí tăng này. Đáng nói hơn, sức cạnh tranh yếu và khả năng “bào mòn” nền kinh tế vốn sẽ diễn ra do cắt giảm lao động, thay thế máy móc cho hình thức sử dụng lao động nhân công, giảm đầu tư đặc biệt từ khối DN tư nhân và các DN FDI… Chưa kể đến mức tăng năng suất lao động chỉ là 4,4%, vẫn thấp hơn mức tăng lương tối thiểu là 6,5%.

cuoc tranh luan van chua nga ngu
Lao động ngành da giày được xem là hưởng mức lương không chênh mức lương tối thiểu là bao nhiêu

Theo “công thức” mà Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã tính toán thì lương tối thiểu tăng 1% có thể khiến lương trung bình tăng 0,32%, lao động giảm 0,13%. TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng phân tích: “Điều này cho thấy chính sách điều chỉnh tiền lương tối thiểu nhanh và liên tục có thể làm giảm tốc độ tích lũy tư bản, nhất là của DN tư nhân, làm khu vực này tăng trưởng chậm lại. Ngoài ra, các ngành chế biến - chế tạo, tăng lương tối thiểu qua thực tế cho thấy làm giảm việc làm trong tất cả ngành công nghiệp. DN có quy mô lớn (thể hiện qua số lượng lao động nhiều), sẽ cắt giảm việc làm nhiều hơn. Đầu tư máy móc trong các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, sản phẩm gỗ và nội thất cũng sẽ là xu hướng. Trong khi các ngành công nghiệp thâm dụng vốn như điện tử và sản xuất máy móc lại giảm đầu tư máy móc”.

TS Nguyễn Tiến Dũng, Viện VEPR thì cho rằng, các DN xuất khẩu hiện nay đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xuất khẩu chiếm 80% GDP. Nếu tăng lương tối thiểu, thay vì chọn cách “đội giá” sản phẩm lên (do tính chi phí chi trả cho người lao động), họ sẽ thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động để bảo đảm khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Hiện nay, mức lương tối thiểu vùng vẫn đang là dự thảo và đang lấy ý kiến bộ ngành, DN và người lao động để trình Chính phủ phê duyệt, áp dụng từ 1-1-2018. Dự kiến Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ trình Chính phủ ký ban hành vào tháng 10 tới để DN có kế hoạch chuẩn bị điều chỉnh lương.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khẳng định, tiền lương và năng suất lao động là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau. Nếu chỉ tăng lương, năng suất lao động không những không tăng mà ngược lại còn “nghẽn” lại. Bà Lan nhấn mạnh: “Năng suất lao động không tăng cũng không có lý do tăng lương tối thiểu. Vì điều này kìm hãm năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam…”.

Bảo đảm mức sống tối thiểu

TS Vũ Quang Thọ, Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn, Tổng Lao động Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng: Lương tối thiểu không những cần duy trì mà phải tăng lên vì hiện thấp hơn mức sống tối thiểu là 16%, chỉ 51% gia đình công nhân đủ trang trải cuộc sống, 57% bức xúc về lương, thu nhập, còn lại là chi tiêu tằn tiện, phải làm thêm... TS Vũ Quang Thọ nhấn mạnh: “Nhiều DN thường nói nguồn nhân lực rất quan trọng, song không muốn tăng lương. Theo tôi, Việt Nam phải quyết tâm tăng lương tối thiểu lên bằng mức sống tối thiểu, tiền lương phải đảm bảo nhu cầu sống cho người lao động”.

Theo ông Thọ, mức lương tăng 6,5% cũng chỉ làm cho chi phí của DN tăng thêm 2%, không đến nỗi phải “oằn lưng” chi trả. Thậm chí ông Thọ khẳng định: “Nếu năm 2018 lương tối thiểu được tăng thêm 6,5% thì vẫn chưa đảm bảo mức sống cho người lao động”.

Tại cuộc họp báo về tình hình thực hiện công tác lao động, có công và xã hội 9 tháng năm 2017, bà Tống Ngọc Minh, Cục trưởng Quản lý Lao động và Tiền lương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nói rằng, Hội đồng Tiền lương Quốc gia đề xuất mức tăng lương tối thiểu 6,5%, đã tính đến tác động, chi phí của DN. Ví như mức tăng chi phí bình quân của mỗi DN khoảng 0,5-0,6%, các ngành dệt may, da giày, thủy sản tăng 1,2-1,5%. Và điều quan trọng bà Minh nhấn mạnh, mức lương tối thiểu phải hiểu đó là mức thấp nhất hay mức “sàn” mà DN phải trả. “Mức lương này, chúng tôi muốn bảo đảm đặc biệt cho người yếu thế. Trong trường hợp trả cao hơn thì đó là sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và lao động trên cơ sở năng lực và hiệu quả lao động”.

Cũng theo bà Minh, mức lương tối thiểu những năm qua tăng thấp hơn các giai đoạn trước. Năm 2017 tăng 7,2%, năm 2018 dự kiến chỉ tăng 6,5%. Mức tăng này đã bù đắp CPI (trượt giá) để bảo đảm tiền lương có giá trị thực tế và nâng dần mức sống tối thiểu của người lao động nói chung.

Dù thế nào thì tăng lương tối thiểu vẫn phải căn cứ vào các nguyên tắc: Bảo đảm mức sống tối thiểu cho người lao động, khả năng cạnh tranh, năng suất lao động và điều kiện của DN...

Nguyễn Anh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
AVPL/SJC HCM 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
AVPL/SJC ĐN 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,770 ▼200K 11,100 ▼150K
Nguyên liệu 999 - HN 10,760 ▼200K 11,090 ▼150K
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
TPHCM - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Hà Nội - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Hà Nội - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Đà Nẵng - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Đà Nẵng - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Miền Tây - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Miền Tây - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 110.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 110.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼2300K 113.000 ▼2300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼2300K 112.890 ▼2300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼2280K 112.200 ▼2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼2280K 111.970 ▼2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼1730K 84.900 ▼1730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼1340K 66.260 ▼1340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼960K 47.160 ▼960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼2110K 103.610 ▼2110K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼1400K 69.080 ▼1400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼1500K 73.600 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼1560K 76.990 ▼1560K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼860K 42.530 ▼860K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼760K 37.440 ▼760K
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,840 ▼250K 11,290 ▼250K
Trang sức 99.9 10,830 ▼250K 11,280 ▼250K
NL 99.99 10,400 ▼350K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,400 ▼350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
Miếng SJC Thái Bình 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Miếng SJC Nghệ An 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Miếng SJC Hà Nội 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Cập nhật: 15/05/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16124 16391 16973
CAD 18016 18291 18906
CHF 30347 30722 31354
CNY 0 3358 3600
EUR 28433 28700 29727
GBP 33655 34044 34975
HKD 0 3190 3392
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 14966 15551
SGD 19447 19727 20243
THB 694 757 810
USD (1,2) 25673 0 0
USD (5,10,20) 25711 0 0
USD (50,100) 25739 25773 26113
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,750 25,750 26,110
USD(1-2-5) 24,720 - -
USD(10-20) 24,720 - -
GBP 34,003 34,095 35,006
HKD 3,262 3,271 3,371
CHF 30,472 30,567 31,418
JPY 174.21 174.52 182.31
THB 740.67 749.81 801.77
AUD 16,439 16,498 16,942
CAD 18,293 18,352 18,847
SGD 19,625 19,686 20,307
SEK - 2,624 2,715
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,830 3,963
NOK - 2,455 2,541
CNY - 3,558 3,655
RUB - - -
NZD 14,967 15,106 15,546
KRW 17.23 17.97 19.31
EUR 28,621 28,643 29,863
TWD 776.47 - 939.46
MYR 5,655.61 - 6,380.11
SAR - 6,797.05 7,154.54
KWD - 82,095 87,292
XAU - - -
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,750 25,760 26,100
EUR 28,442 28,556 29,659
GBP 33,804 33,940 34,910
HKD 3,257 3,270 3,376
CHF 30,302 30,424 31,321
JPY 173.12 173.82 181
AUD 16,357 16,423 16,953
SGD 19,607 19,686 20,224
THB 756 759 792
CAD 18,237 18,310 18,819
NZD 15,053 15,560
KRW 17.68 19.49
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25753 25753 26113
AUD 16289 16389 16956
CAD 18197 18297 18850
CHF 30550 30580 31468
CNY 0 3561.3 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28698 28798 29573
GBP 33949 33999 35120
HKD 0 3270 0
JPY 174.18 175.18 181.71
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15059 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19581 19711 20443
THB 0 721.7 0
TWD 0 845 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 10500000 10500000 11800000
Cập nhật: 15/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,750 25,800 26,135
USD20 25,750 25,800 26,135
USD1 25,750 25,800 26,135
AUD 16,380 16,530 17,598
EUR 28,785 28,935 30,110
CAD 18,138 18,238 19,558
SGD 19,668 19,818 20,300
JPY 174.96 176.46 181.11
GBP 34,058 34,208 34,995
XAU 11,548,000 0 11,822,000
CNY 0 3,446 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/05/2025 22:00