Cuộc chiến giữa Ả Rập Xê Út và Nga: ai sẽ người chiếm lĩnh thị trường dầu mỏ Trung Quốc

15:05 | 08/02/2021

645 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Năm ngoái, Ả Rập Xê-út đã cung cấp gần 85 triệu tấn dầu thô cho CHND Trung Hoa, đã giảm giá và vượt trước Nga, nước cung cấp cho Trung Quốc 83,5 triệu tấn dầu. Các nhà xuất khẩu khác - Iraq, Brazil, Angola - cũng đang “nối gót” Matxcơva. Ngay cả Hoa Kỳ, bất chấp xung đột kinh tế, cũng đang tích cực gia tăng thương mại.
Guyana và Suriname - nơi bùng nổ dầu lửa cuối cùng trong lịch sửGuyana và Suriname - nơi bùng nổ dầu lửa cuối cùng trong lịch sử
Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng đến thị trường dầu mỏ toàn cầuTrung Quốc gia tăng ảnh hưởng đến thị trường dầu mỏ toàn cầu
Cuộc chiến giữa Ả Rập Xê Út và Nga: ai sẽ người chiếm lĩnh thị trường dầu mỏ Trung Quốc

Tình hình này ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của Nga tới mức nào?

Cuộc chiến giá dầu mỏ

Ả Rập Xê Út và Nga là hai nhà sản xuất và xuất khẩu dầu lớn nhất, đang cạnh tranh khi được khi thua. Lần này, Vương quốc đã hành động bán phá giá để cạnh tranh.

"Sau khi Matxcơva từ chối gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu tại cuộc họp OPEC + mùa xuân, Ả Rập Xê Út đã út chiết khấu giá cực mạnh với khách hàng tại các khu vực, bao gồm cả Trung Quốc. Bắc Kinh ngay lập tức tận dụng lợi thế này", - chuyên gia Irina Aydrus, phó giáo sư tại Khoa kinh tế thế giới và kinh doanh của Đại học RUDN, cho biết.

Đương nhiên, xuất khẩu của Nga đã giảm 7,5% so với năm 2019. Còn xuất khẩu dầu thô của Ả Rập Xê-út đã tăng gần 2% và đạt mức trước khủng hoảng. Mọi người đang cố gắng giành lấy “miếng bánh ngon” trên thị trường dầu mỏ Trung Quốc vì nước này là nhà nhập khẩu lớn nhất, chiếm hơn 13% lượng tiêu thụ toàn cầu. Trong một năm, 542,4 triệu tấn dầu thô (10,85 triệu thùng/ngày) đã được cung cấp cho Trung Quốc. Bất chấp đại dịch, nhập khẩu vẫn tăng 7,6%. "Nền kinh tế Trung Quốc đang phục hồi với tốc độ khá cao, và nhu cầu về nhiên liệu sẽ tiếp tục tăng. Thời gian tới Trung Quốc sẽ đưa vào hoạt động bốn nhà máy lọc dầu với tổng công suất hơn một triệu thùng/ngày. Dân số Trung Quốc vẫn tăng và sắp lên tới 1 tỷ 500 triệu người, - chuyên gia Oleg Kalenov, phó giáo sư tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân Plekhanov nhận xét. - Do đó, tiêu thụ dầu ở Trung Quốc cũng đang tăng lên. Một phần đáng kể dầu mỏ dùng để sản xuất nhựa".

Ngoài ra, theo thỏa thuận thương mại với Washington, Bắc Kinh đã cam kết bổ sung nhập khẩu năng lượng gần 34 tỷ USD trong năm 2021 - gấp đôi so với năm 2020, chuyên gia Irina Aydrus nhắc nhở.

Tăng cường xuất khẩu sang châu Á

Nhà xuất khẩu dầu lớn thứ ba cho CHND Trung Hoa là Iraq. Xuất khẩu dầu của Iraq sang Trung Quốc đã tăng mạnh trong bối cả 3-h thị phần của Venezuela giảm 16% xuống còn 60,12 triệu tấn do lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ. Ở vị trí thứ 4 là Brazil với 42 triệu tấn, Angola đứng thứ 5.

Bất chấp các xung đột chính trị và kinh tế, Mỹ đã tăng gấp ba lần lượng xuất khẩu dầu cho Trung Quốc đến 19,76 triệu tấn. "Tuy nhiên, dầu của Nga vẫn rẻ hơn đối với Trung Quốc nhờ đường ống dẫn dầu Đông Siberia-Thái Bình Dương và các cảng biển gần các nhà máy lọc dầu của Trung Quốc", - ông Oleg Kalenov giải thích.

Nhìn chung, các nhà kinh tế không nhận thấy bất kỳ rủi ro lớn nào đối với Nga trên thị trường Trung Quốc. Ngay cả những nhà xuất khẩu táo bạo của Vương quốc Ả Rập Xê Út cũng không thể chiếm lĩnh thị phần này. "Ả Rập Xê Út chỉ đạt được lợi thế tạm thời về khối lượng cung ứng, chứ không phải về tổng doanh thu. Lợi thế tạm thời đạt được chủ yếu nhờ bán phá giá. Nga cũng có thể giảm giá và nhờ đó giảm chênh lệch. Nhưng, khi đó kho bạc sẽ nhận được ít lợi nhuận hơn” - ông Pyotr Pushkarev, nhà phân tích hàng đầu tại TeleTrade cho biết.

Ông lưu ý rằng, ngân sách của Ả Rập Xê Út vốn phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ, nhiều hơn ngân sách của Nga. Điều quan trọng đối với Riyadh là duy trì hoặc mở rộng thị phần của mình trong năm khủng hoảng. Do đó họ hành động bán phá giá.

Tuy nhiên, doanh thu của Nga đã sụt giảm ngay cả khi không có chiết khấu. Từ tháng 1 đến tháng 11 - giảm gần 41%, chỉ đạt 66,4 tỷ USD. Đây là dữ liệu của Dịch vụ Hải quan Liên bang Nga. Chuyên gia Irina Aydrus cho biết, đây là hậu quả của việc sụt giảm nguồn cung cấp và chi phí xuất khẩu hydrocacbon.

Đồng thời, vào mùa thu, tỷ lệ thu ngân sách từ dầu khí đã giảm gần 14%, xuống còn 29,3% - mức thấp chưa từng có. Tuy nhiên, nhiệm vụ giảm phụ thuộc vào dầu mỏ vẫn còn cấp bách.

Việc sản xuất và bán nhiên liệu hydrocacbon mang lại lợi nhuận rất cao ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng. Do đó, các lĩnh vực không liên quan đến tài nguyên thiên nhiên không quá hấp dẫn để đầu tư. Các nhà kinh tế nói rằng, sự mất cân bằng có thể được loại bỏ bằng cách tăng thuế đối với ngành dầu khí và phân phối lại thu nhập.

Nguồn thu từ dầu mỏ

Vào năm 2020, Nga đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhờ dự trữ ngoại hối cao, Ngân hàng Nhà nước thậm chí đã mua thêm được 40,5 tỷ USD để tăng dự trữ ngoại hối. "Lợi nhuận của các công ty dầu mỏ Nga tính bằng đồng rúp do tỷ giá hối đoái suy yếu và giá xăng dầu trên thị trường nội địa không thay đổi nhưng vẫn khá cao đã giúp duy trì giá dầu xuất khẩu. Nhưng, chúng tôi đã giảm một chút sản lượng dầu", - ông Pushkarev giải thích.

Hiện tại đã hết thời gian giảm giá. Các chuyên gia bày tỏ lạc quan về triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu và nhu cầu dầu thô. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo, giá dầu sẽ đạt mức trung bình 50 USD/thùng trong năm nay, tăng 20% ​​so với năm ngoái.

Tuy nhiên, các nhà phân tích không coi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường dầu mỏ là nguy hiểm đối với Nga. Đối với các nhà xuất khẩu Nga, châu Á đã từ lâu là một khu vực thương mại ổn định. Hơn nữa, trong vòng 5 đến 7 năm tới, các nhà máy lọc dầu ở Trung Quốc và Ấn Độ có thể tăng nguồn cung dầu thêm nữa vì hai nước này không vội chuyển sang năng lượng xanh. Tốc độ phát triển sản xuất công nghiệp ở Trung Quốc và Ấn Độ luôn ở mức cao.

Ngoài ra, sản lượng dầu đá phiến của Mỹ dự kiến giảm, vì chính quyền mới đã cấm các dự án dầu khí đá phiến mới trên các vùng đất liên bang. Rõ ràng, các công ty đá phiến không được phép phát triển như đã từng có dưới thời Donald Trump. Điều này có nghĩa là lượng lớn dầu thô sẽ vẫn được bán trên thị trường nội địa.

vn.sputniknews.com

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 122,000
AVPL/SJC HCM 120,000 122,000
AVPL/SJC ĐN 120,000 122,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 11,450
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 11,440
Cập nhật: 11/05/2025 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 122.000
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 122.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 122.000
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 11/05/2025 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 12,200
Miếng SJC Nghệ An 12,000 12,200
Miếng SJC Hà Nội 12,000 12,200
Cập nhật: 11/05/2025 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 11/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 11/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 11/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 11/05/2025 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/05/2025 22:00