Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030

16:29 | 24/10/2024

616 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chuyển đổi số không phải là cuộc cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới và mô hình mới.

I. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển đổi số ở nước ta hiện nay

Đẩy mạnh chuyển đổi số hiện nay đang được rất nhiều quốc gia trên thế giới tiến hành, đem lại những thành công nhất định, như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, CHLB Đức… Ở nước ta, chuyển đổi số là một nội dung quan trọng được Đại hội XIII của Đảng đặc biệt quan tâm và đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Có rất nhiều cách tiếp cận và quan niệm chuyển đổi số ở những khía cạnh khác nhau: theo Microsoft cho rằng: chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới. Còn theo quan điểm của FPT, chuyển đổi số trong tổ chức, doanh nghiệp doanh nghiệp là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới, như: dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty

Thực tế cho thấy, chuyển đổi số đã và đang góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số và làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng, cũng như đời sống văn hóa - xã hội. Do đó, chuyển đổi số đang dần trở thành xu thế không thể đảo ngược và là bước đi quan trọng để thực hiện nền kinh tế số và xã hội số, mở ra cho mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế và mỗi tổ chức, cá nhân cơ hội phát triển chưa từng có, cũng là những thách thức, yêu cầu mới.

Chuyển đổi số không phải là cuộc cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới và mô hình mới. Chỉ có đổi mới sáng tạo, Việt Nam mới thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Từ những cách tiếp cận trên, chuyển đổi số là hoạt động tích cực, chủ động của người đứng đầu doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị trong triển khai, áp dụng công nghệ hiện đại vào các hoạt động sản xuất - kinh doanh, phát triển rút ngắn thời gian lao động, nâng cao hiệu quả công việc.

II. Chủ trương của Đảng về công tác chuyển đổi số Quốc gia

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu cụ thể cho sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người ước đạt 4.700 - 5.000 USD/năm); đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 7.500 USD/năm); đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển có thu nhập cao (đến năm đó, tiêu chí sẽ thay đổi, theo tiêu chí hiện nay, GDP bình quân đầu người phải đạt trên 12.535 USD/năm).

Để thực hiện được mục tiêu đó, Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiều nhóm giải pháp ở các ngành, lĩnh vực khác nhau, trong đó có lĩnh vực chuyển đổi số được xác định: “Phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số và coi đây là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”.

Đại hội cũng khẳng định, cùng với sự phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là một trong ba trụ cột thực hiện phát triển nhanh, phát triển bền vững; đồng thời là một trong những khâu đột phá lớn, góp phần “tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”.

Thống kê cụ thể cho thấy: năm 2015 kinh tế số ở Việt Nam đạt quy mô khoảng 3 tỷ USD, đến năm 2019 giá trị đó đạt khoảng 12 tỷ USD, gấp 4 lần năm 2015, đóng góp 5% vào GDP của quốc gia. Báo cáo của Google và Temasek (Xinh-ga-po) dự báo đến năm 2025, nếu giữ vững đà tăng trưởng quy mô nền kinh tế số tại Việt Nam sẽ đạt con số 30 tỷ USD. Còn theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2019”, giá trị đó sẽ chạm mốc 43 tỷ USD với các lĩnh vực: thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ”.

Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực tiễn, nhận thức đúng thời cơ, vai trò quan trọng của cách mạng công nghệ 4.0 đối với sự nghiệp đổi mới. Đại hội XIII xác định thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số là một trong những trọng tâm chính của nhiệm kỳ tiếp theo: “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0 để khoa học - công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Chuyển đổi số quốc gia được thực hiện trên thế “kiềng ba chân” là Chính phủ số - kinh tế số - xã hội số. Việc xây dựng Chính phủ điện tử được nhận định tạo điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công Chính phủ số tại Việt Nam.

Quan điểm xuyên suốt của Chính phủ là lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực, nguồn lực của chuyển đổi số. Chuyển đổi số phải để người dân, doanh nghiệp hưởng lợi và chính họ sẽ tạo ra nguồn lực cho sự phát triển.

Chương trình chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025 Định hướng đến năm 2030

Những quan điểm chủ đạo trong chuyển đổi số nói chung và trong tạo lập, khai thác dữ liệu số nói riêng

Thứ nhất, tầm nhìn chiến lược và đổi mới từ tư duy, nhận thức, hành động cho phù hợp điều kiện thực tiễn.

Thứ hai, chuyển đổi số quốc gia phải được triển khai một cách tổng thể, toàn diện nhưng ưu tiên chất lượng hơn chạy theo số lượng; tập trung vào 4 ưu tiên chính: Phát triển dữ liệu số; phát triển các dịch vụ công trực tuyến gắn với người dân, doanh nghiệp và có đối tượng bao phủ lớn; phát triển các nền tảng số; bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin, an ninh con người.

Thứ ba, cơ sở dữ liệu quốc gia là nguồn tài nguyên mới và là nền tảng quan trọng cho chuyển đổi số quốc gia nên phải có tính liên kết, liên thông, chia sẻ cao giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa công và tư.

Thứ tư, phát huy tính chủ động, sáng tạo; huy động mọi nguồn lực, sự tham gia của các cấp, ngành, người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Tận dụng mọi nguồn lực nhằm phát triển mạnh hạ tầng số, nền tảng số nhằm tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận được nhiều dịch vụ số, tiện ích số.

Nhiệm vụ quan trọng mà Đảng ta tập trung trong chuyển đổi số

Với thông điệp “Tạo lập và khai thác dữ liệu số để tạo ra giá trị mới”, yêu cầu “thông thoáng về chính sách, thông suốt về hạ tầng, thông minh về quản lý”, Thủ tướng yêu cầu tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ.

Một là, các bộ, ngành, địa phương cần tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách cho hạ tầng số, nền tảng số và nguồn nhân lực số để thúc đẩy dữ liệu số phát triển ổn định, bền vững. Sớm xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về dữ liệu số; danh mục dữ liệu dùng chung; quản lý chất lượng thông tin, dữ liệu…

Hai là, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc tạo lập dữ liệu thông qua xây dựng, phát triển, kết nối, chia sẻ, khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra giá trị mới.

Ba là, các bộ, ngành, địa phương cần chung tay tháo gỡ những điểm nghẽn trong triển khai Đề án 06. Trong đó, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, đề xuất giải pháp bổ sung thông tin địa chỉ số quốc gia vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; tích hợp tài khoản định danh điện tử với hệ thống sàn giao dịch bất động sản quốc gia, hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; khai báo địa chỉ số của cá nhân, tổ chức trên VNeID bảo đảm phù hợp với quy định hiện hành.

Bộ Công an chủ trì, làm việc với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam nghiên cứu, đề xuất giải pháp tích hợp tiện ích sổ Bảo hiểm Xã hội trên ứng dụng VNeID.

Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Công an hướng dẫn các cơ sở y tế và người dân sử dụng thông tin Sổ sức khỏe điện tử trên VneID.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, kết nối cơ sở dữ liệu về dân cư để làm sạch dữ liệu người tham gia giao dịch chứng khoán.

Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cấp, hiện đại hóa hạ tầng số, nhất là hạ tầng dùng chung, hạ tầng thanh toán, hạ tầng thông tin tín dụng…

Thủ tướng giao Bộ Tư pháp phát triển hạ tầng số để tối ưu hóa hệ thống đăng ký quản lý hộ tịch điện tử, đảm bảo hiệu quả trong thực hiện các thủ tục hành chính liên thông “Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi”; “Đăng ký khai tử, xóa đăng ký thường trú, trợ cấp mai táng phí”.

Bốn là, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến thông qua tái cấu trúc quy trình, tái sử dụng dữ liệu sẵn có. Cung cấp dịch vụ công trực tuyến phải lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, tạo sự thuận lợi và cắt giảm chi phí tuân thủ…

Năm là, hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi hoạt động sản xuất, kinh doanh lên môi trường số, chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Đồng thời, tăng cường thúc đẩy hợp tác quốc tế, tìm kiếm, phát hiện các mô hình, công nghệ, giải pháp hiện đại, áp dụng phù hợp ở Việt Nam.

Sáu là, tăng cường truyền thông về lợi ích, hiệu quả của chuyển đổi số để các cơ quan, người dân, doanh nghiệp hiểu rõ, tích cực tham gia và thụ hưởng.

Một số biện pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển đổi số theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2021 - 2030 của Đại hội XIII nêu rõ: “Thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số, kích cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quy mô lớn, thúc đẩy tiêu dùng nội địa, giải quyết việc làm”. Theo đó, trong thời đại bùng nổ thông tin, với nhiều tính năng, tác dụng rất hiện đại của các trang thiết bị máy móc khác nhau, nếu mỗi người, nhất là người đứng đầu doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, địa phương không tích cực, chủ động thay đổi thói quen cũ, đưa công nghệ số vào thực tiễn công việc thì không thể có những bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, cải thiện đời sống của Nhân dân; nhanh chóng tiếp cận công nghệ số, từng bước triển khai tổ chức thực hiện, trước mắt ở những lĩnh vực, ngành nghề như quản trị số, xây dựng hệ thống dữ liệu, xử trí, tiếp cận thông tin đến với người dân được nhanh nhất, hiệu quả nhất.

Cần có kế hoạch, chiến lược quy hoạch tổng thể, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho mục đích chuyển đổi số, đào tạo, sắp xếp nhân lực chất lượng cao cho chuyển đổi số; người đứng đầu doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, địa phương phải tiên phong khởi xướng việc chuyển đổi số, không được chần chừ, do dự, mà phải quyết liệt nắm bắt những yêu cầu, nhiệm vụ đang đặt ra, có sự tiếp nhận, xử lý công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Có như vậy, mới đem lại sự đổi thay, khác lạ, một diện dạo mới cho doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, địa phương.

Trên thực tế, triển khai ứng dụng chuyển đổi số đã góp phần tối ưu năng suất làm việc của người lao động; tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp; giảm chi phí vận hành; rút ngắn thời gian ra quyết định của các lãnh đạo nhờ vào hệ thống báo cáo kịp thời, chính xác; giúp tăng trải nghiệm của người dân đối với dịch vụ hành chính công, cải tiến quy trình cung cấp dịch vụ theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại…

Thực hiện chuyển đổi số cần được tiến hành toàn diện, đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng ngành, lĩnh vực.

Đại hội XIII đã nêu lên định hướng lớn đó là: “Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”10. Theo đó, việc chuyển đổi số phải được diễn ra toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, y tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại… Trong đó, tập trung ưu tiên những ngành, lĩnh vực có khả năng chuyển đổi số nhanh, trọng điểm, mũi nhọn, tạo ra ưu thế, năng suất đem lại hiệu quả cao, không những giảm lao động chân tay cho công nhân, người lao động mà ngay cả đối với những nhà lãnh đạo, quản lý, điều hành, như: giáo dục - đào tạo, y tế, tài chính, ngân hàng, sản xuất công nghiệp…

Muốn thực hiện được những nội dung trên thì chúng ta phải tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận tiện cho các bộ phận, lực lượng thực hành chuyển đổi số. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo…”; xây dựng được hệ thống nền tảng số mang tầm quốc gia để gắn kết với các địa phương, bảo đảm việc triển khai, tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Đại hội XIII xác định: “phát triển mạnh hạ tầng xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số”; chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao để thực hành chuyển đổi số. Đồng thời, xác định: đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp.

Thực hành chuyển đổi số kết hợp chặt chẽ giữa sáng tạo và phát huy nội lực, hướng đến phát triển ổn định, bền vững đất nước.

Đại hội XIII xác định phải chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh…; đồng thời, cần “nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học - công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm…”, “khơi dậy nội lực, khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nước”.

Theo đó, trong quá trình chuyển đổi số cần khuyến khích, khơi nguồn sáng tạo cho tất cả người dân trong xã hội, nhất là doanh nhân, những người tài năng truyền đạt kinh nghiệm, phương pháp chuyển đổi số; đẩy mạnh hợp tác, liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các doanh nghiệp để gặp gỡ, trao đổi, giải quyết, tháo gỡ những điểm nghẽn trong quá trình chuyển đổi số; có cơ chế, chính sách hợp lý, kịp thời để khai thác, sử dụng nguồn nội lực trong nước kết hợp với ngoại lực để các cá nhân, tổ chức yên tâm trong quá trình triển khai thực hiện chuyển đổi số; đặc biệt, lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong thực hành chuyển đổi số, đó sẽ là những “bệ phóng”quan trọng để chúng ta kết nối với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong khu vực và thế giới.

Chuyển đổi số là một trong những nội dung rất quan trọng cụ thể hóa đột phá chiến lược mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra và Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương đã đề ra 3 đột phá trong nhiệm kỳ này. Trong đó, tập trung ưu tiên lãnh đạo công tác nghiên cứu, tham mưu và chủ động tham gia thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Mục tiêu đặt ra là, thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động công tác Đảng một cách toàn diện, ứng dụng, triển khai ngay một số phương thức lãnh đạo, điều hành dựa trên số hóa dữ liệu trong toàn Đảng bộ, nhằm thúc đẩy toàn diện công tác Đảng, nâng cao khả năng tích hợp, đổi mới, sáng tạo trong Đảng bộ Khối.

Xây dựng và vận hành Sổ tay Đảng Viên điện tử

Việc xây dựng, vận hành Sổ tay đảng viên điện tử trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương là một trong những nội dung cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ Khối. Đây cũng là bước khởi đầu quan trọng, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, nhất là đồng chí bí thư và thường trực cấp ủy trong Đảng bộ Khối về chuyển đổi số và chuyển đổi số trong công tác Đảng; quán triệt và triển khai thực hiện tốt chuyển đổi số trong công tác Đảng ở Đảng bộ Khối...

Sổ tay đảng viên điện tử và một số tài liệu nghiệp vụ công tác đảng nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bất cập của các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cấp ủy viên ở cơ sở và bí thư chi bộ, trong điều kiện đại bộ phận tổ chức đảng ở cơ sở thiếu hoặc không có cán bộ chuyên trách, phần đông làm công tác đảng kiêm nhiệm trong khi nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị Trung ương đòi hỏi nỗ lực cao, trách nhiệm rất lớn.

Việc đưa vào vận hành, sử dụng Sổ tay đảng viên điện tử sẽ góp phần quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng; nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên về chuyển đổi số nói chung, chuyển đổi số trong công tác đảng nói riêng; từng bước đổi mới phương thức quản trị, quản lý cán bộ, đảng viên và sinh hoạt đảng; nâng cao nghiệp vụ công tác đảng cho cấp ủy viên và bí thư chi bộ.

Sổ tay đảng viên điện tử của Đảng bộ Khối có các tính năng chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong trong học tập, quán triệt, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, Sổ tay đảng viên điện tử có các tính năng và vai trò quan trọng trong công tác sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ và quản lý, đánh giá đội ngũ cấp ủy viên, đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng, hoạt động nghiệp vụ công tác Đảng và công tác tra cứu, tìm kiếm và sử dụng tài liệu của Đảng trên nền tảng số.

Thời gian tới, Đảng ủy Khối sẽ từng bước tổ chức tập huấn về chế độ vận hành, độ cập nhật thông tin, cơ sở dữ liệu Sổ tay đảng viên điện tử, và vận hành cho các đảng bộ trực thuộc. Đồng thời lấy ý kiến vào dự thảo Quy chế quản lý, vận hành, sử dụng Sổ tay đảng viên điện tử Đảng bộ Khối.

III. Hoàn thiện hành lang pháp lý về việc chuyển đổi số Quốc gia

Năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó xác định mục tiêu tổng quát là “Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái”.

Từ năm 2020-2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, ban hành nhiều Quyết định, chiến lược Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số trong đó phải kể đến Quyết định số 749/QĐ-TTg ban hành Chương trình Chuyển đổi số (quốc gia với ba trụ cột là: Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số; Chiến lược Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số; Chiến lược Kinh tế số và Xã hội số. Tiếp sau đó, gần như tất cả các bộ, ngành và địa phương đã ban hành nghị quyết, chiến lược và chương trình Chuyển đổi số. Đây là thuận lợi cơ bản, có tính quyết định cho thành công ở những bước tiếp theo. Xét trên góc độ này, quyết tâm, khát vọng và sự nhanh nhạy của Việt Nam không kém bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Để bảo vệ quyền con người trên không gian mạng và lợi ích quốc gia, nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật an toàn thông tin, Luật an ninh mạng, Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin... đã được ban hành, trong đó có các quy định cụ thể về quyền của người dân khi sử dụng và kinh doanh trên mạng in-tơ-nét. Bên cạnh đó, việc ngăn chặn, xử lý tin xấu độc với các nền tảng xuyên biên giới được coi là nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan chức năng. Luật Giao dịch điện tử 2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2024 cũng góp phần hoàn thiện hành lang pháp lí, tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực, thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế số, chuyển đổi số, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển và ứng dụng Internet cao nhất thế giới với số lượng người sử dụng in-tơ-nét đạt hơn 70 triệu người, tương đương 73% tổng dân số. Dữ liệu cá nhân từ vị trí chưa thực sự quan trọng, trở thành nguyên liệu chính cho hoạt động của các ngành, nghề, dịch vụ kinh doanh và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong tổng thể lĩnh vực tạo ra giá trị lợi nhuận cao trong nền kinh tế quốc dân. Điều này đặt ra bài toán phải quản lí hiệu quả, tương đồng giữa sử dụng và bảo vệ dữ liệu cá nhân, ứng phó, hạn chế nguy cơ, xử lí vi phạm để giữ vững sự phát triển và giá trị do dữ liệu cá nhân tạo ra.

Trong từng lĩnh vực, Chính phủ, các bộ, ngành cũng xây dựng văn bản, hướng dẫn theo thẩm quyền, quy định cụ thể về tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn về tương tác an toàn trên không gian mạng, cụ thể như Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lí, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng và Nghị định số 104/2022/NĐ-CP của Chính phủ là căn cứ pháp lí quan trọng để thực hiện việc bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy và chuyển sang môi trường số; Thông tư số 09/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về quản lí và tổ chức dạy học trực tuyến trong cơ sở giáo dục phổ thông và cơ sở giáo dục thường xuyên; Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP do Chánh án TANDTC, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp ban hành; Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25-1-2022 và Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31-3-2022 của Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Giáo dục và Đào tạo “Phát triển các kho học liệu số, học liệu mở chia sẻ dùng chung toàn ngành giáo dục”, chủ trì và phối hợp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “Xây dựng mạng lưới thư viện điện tử, các nền tảng tài nguyên giáo dục mở, thí điểm xây dựng và triển khai chương trình sách giáo khoa mở”; Quyết định số 830/QĐ-TTg ngày 1-6-2021 phê duyệt Chương trình "Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo trên môi trường mạng giai đoạn 2021-2025"…

Có thể khẳng định, hệ thống văn bản chính sách, pháp luật về chuyển đổi số ở Việt Nam đã đề cập và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội xảy ra trên môi trường mạng tương đối toàn diện và tương thích với các chuẩn mực, kinh nghiệm của quốc tế. Dù vậy, tương tự như nhiều quốc gia khác, khuôn khổ pháp luật của Việt Nam về chuyển đổi số vẫn còn nhiều khoảng trống, đòi hỏi cần liên tục củng cố, bổ sung trong phù hợp với sự phát triển thực tế của công nghệ số và chuyển đổi số.

IV. Ứng dụng chuyển đổi số trong đời sống xã hội

Hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng số tiếp tục được phát triển: (i) Tốc độ truy cập mạng băng rộng cố định và di động tăng so với cùng kì, xếp lần lượt thứ 45 và 52, cao hơn mức trung bình của thế giới; (ii) Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối đến các phường, xã, thị trấn; (iii) Các cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia, chuyên ngành được đẩy mạnh triển khai xây dựng, kết nối, chia sẻ, tạo tiện ích trong việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp (quản lí dân cư, đăng kí doanh nghiệp, bảo hiểm, hộ tịch điện tử...).

Đặc biệt, CSDL quốc gia về dân cư đã kết nối, liên thông với 47 bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cấp trên 76 triệu thẻ căn cước công dân gắn chip điện tử; đồng bộ trên 234 triệu thông tin tiêm chủng; kích hoạt gần 2,6 triệu tài khoản định danh điện tử; xác định thông tin chính xác của gần 50 triệu thuê bao di động... Việc khai thác CSDL quốc gia về dân cư mang lại nhiều lợi ích, như giúp tiết kiệm chi phí sao in hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính; hạn chế việc di chuyển; hạn chế việc phải kiểm tra xác minh mà sử dụng dữ liệu của các bộ, ngành để xác thực, xác minh thông tin trên giấy tờ tùy thân; tinh gọn cán bộ, công chức bộ phận tiếp dân, giảm tình trạng gặp gỡ trực tiếp, loại bỏ dần tình trạng “tham nhũng vặt”, sách nhiễu người dân... Theo ước tính, việc này đã giúp tiết kiệm cho xã hội hàng nghìn tỉ đồng.

Dịch vụ công trực tuyến được triển khai ngày càng sâu rộng, hiệu quả: Cổng Dịch vụ công quốc gia đã cung cấp gần 4,4 nghìn dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 (gấp 3 lần năm 2021); hơn 154 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái (gấp 1,7 lần so với năm 2021); hơn 3,9 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến (gấp hơn 5,7 lần năm 2021); nhiều dịch vụ số phục vụ người dân, doanh nghiệp được cung cấp kịp thời, hiệu quả (đăng kí dự thi, xét tuyển đại học, cao đẳng; cấp hộ chiếu trực tuyến; thí điểm thành công 2 dịch vụ công liên thông đăng kí khai sinh - đăng kí thường trú - cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi và đăng kí khai tử - xóa đăng kí thường trú - trợ cấp mai táng phí).

Ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện đã tích hợp vào CSDL quốc gia về dân cư, gồm 6 trường thông tin cơ bản của hơn 98 triệu người dân, tương ứng với gần 28 triệu hộ gia đình trên toàn quốc; kết nối liên thông với gần 13.000 cơ sở khám, chữa bệnh và hơn 500 nghìn tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trên toàn quốc và các bộ, ngành. Mỗi năm, Cổng Giao dịch điện tử tiếp nhận và xử lí gần 100 triệu lượt hồ sơ; bình quân mỗi cán bộ bảo hiểm xã hội giải quyết khoảng 4.000 hồ sơ/năm... Với ứng dụng “VssID - Bảo hiểm xã hội số”, gần 30 triệu tài khoản có thể quản lí, kiểm soát các thông tin về quá trình thực hiện các dịch vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thực hiện các dịch vụ công về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế một cách tiện lợi, nhanh chóng, dễ dàng, tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại; sử dụng trực tiếp khi đi khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế trên toàn quốc...

Ngày 6/4/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Bên cạnh các văn bản có tính quy phạm, các hướng dẫn, bộ quy tắc cũng được quan tâm phát triển như Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội được Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ TTTT) ban hành tháng 6/2021. Bộ Quy tắc là cơ sở tiền đề để hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương xây dựng và ban hành các Bộ quy tắc ứng xử trong phạm vi chuyên ngành, lĩnh vực quản lí như Quy tắc ứng xử của người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch ban hành tháng 12/2021.

Bộ TTTT cũng chủ động nghiên cứu, tìm hiểu để nhanh chóng làm chủ các tính năng, công cụ mới của Internet và mạng xã hội phục vụ công tác quản lí, tuyên truyền, nắm bắt dư luận xã hội, thúc đẩy truyền thông chủ động. Tiêu biểu là chương trình “Dân hỏi - Thành phố trả lời” do Bộ TTTT và Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện trong đợt cao điểm chống dịch COVID-19 đã kịp thời giải đáp thắc mắc, cung cấp thông tin trực tiếp giữa thành phố và người dân, kịp thời giải tỏa nhiều thông tin sai sự thật, gây hoang mang trong người dân về các chủ trương, biện pháp phòng chống dịch của Đảng, Nhà nước và Thành phố. Việc sử dụng tính năng livestream mạng xã hội để đối thoại, tương tác trực tiếp đã góp phần thu hẹp khoảng cách giữa cơ quan quản lí với người dân, góp phần xóa tin giả, tin xấu độc trên môi trường mạng. Fanpage chính thức của Chính phủ trên Facebook “Thông tin Chính phủ” cũng là ví dụ tiêu biểu cho việc ứng dụng có hiệu quả mạng xã hội vào truyền thông chính sách. Với 4,1 triệu người theo dõi, trung bình mỗi bài đăng đạt khoảng hơn 2.000 lượt like và hàng trăm lượt bình luận, tương tác.

Bên cạnh việc hợp tác, khai thác tính năng của các mạng xã hội trong truyền thông chính sách, Việt Nam cũng triển khai đồng thời các biện pháp yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới hoạt động có trách nhiệm đối với người dùng và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Các biện pháp đang triển khai gồm: xây dựng các kênh phản ánh, report trực tiếp giữa các đơn vị chức năng với các nền tảng để kịp thời gỡ bỏ, chặn lọc các thông tin xấu độc, các kênh vi phạm; xây dựng Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia và Trung tâm Xử lí tin giả Việt Nam; xây dựng cẩm nang phòng, chống tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng nhằm trang bị kĩ năng cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nhận biết, phát hiện, ứng phó và xử lí có hiệu quả với tin giả, tin xấu độc; thu thập bằng chứng, buộc các nền tảng có trách nhiệm, thực hiện nghĩa vụ thuế cho Nhà nước Việt Nam và trả bản quyền nguồn tin cho các cơ quan báo chí, các trang trong nước…

V. Ứng dụng thực tiễn của chuyển đổi số vào công tác của các Ngân hàng

Ngày 7/6/2021, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã ra Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối về việc “Thực hiện chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, một số nhóm ngành cần ưu tiên chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương bao gồm: nhóm ngành bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin; nhóm ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; nhóm ngành giao thông vận tải; nhóm ngành năng lượng; nhóm ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng và nhóm ngành nông, lâm nghiệp. Trong đó, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng có vai rất quan trọng bởi đây là ngành giữ vai trò huyết mạch của nền kinh tế.

Ngày 11/5/2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã ra Quyết định số 810/QĐ-NHNN phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, mục tiêu là đổi mới toàn diện hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước theo hướng hiện đại, trên cơ sở ứng dụng và khai thác hiệu quả các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, chỉ số về chuyển đổi số của Chính phủ và phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện, phát triển bền vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ.

Theo đó, ngành Ngân hàng đặt ra 8 nhiệm vụ chính: 1) Chuyển đổi nhận thức, đẩy mạnh hoạt động truyền thông, tăng cường kiến thức về chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng; 2) Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng; 3) Phát triển hạ tầng số; 4) Xây dựng và triển khai hiệu quả Chính phủ điện tử tại Ngân hàng Nhà nước; 5) Hình thành và phát triển các mô hình ngân hàng số tại tổ chức tín dụng; 6) Phát triển và khai thác hiệu quả dữ liệu số; 7) Bảo đảm an toàn, an ninh mạng; 8) Phát triển nguồn nhân lực.

Dịch bệnh Covid-19 đã cho thấy các hạ tầng quan trọng của ngành Ngân hàng như hệ thống thanh toán, hệ thống thông tin tín dụng và các ngân hàng hoạt động bền bỉ, thông suốt, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, các cơ quan Chính phủ một cách nhanh chóng, đáp ứng tốt xu hướng dịch chuyển số, tăng tốc số của các chủ thể trong nền kinh tế. Điều đó phần nào cho thấy sự chuẩn bị kỹ càng, chủ động vào cuộc và khả năng thích ứng tốt của ngành Ngân hàng Việt Nam trước những biến động, rủi ro khó lường trong công cuộc chuyển đổi số lâu dài, gian truân. Không thể phủ nhận, chuyển đổi số mang lại những lợi ích cốt lõi sau cho các tổ chức tài chính ngân hàng, có thể kể đến như: 1) Cải thiện bảo mật trên tất cả các cấp độ xử lý dữ liệu: Mã hóa dữ liệu giúp các ngân hàng giảm thiểu tối đa khả năng rò rỉ thông tin. Quan trọng nhất, chuyển đổi số sẽ giúp làm tăng tính an toàn của các giao dịch. 2) Tăng hiệu quả hoạt động và giảm thời gian chờ đợi: Khách hàng không muốn chờ đợi, đặc biệt là khi họ đã tin tưởng giao cho ngân hàng một số tiền lớn. Hệ thống xử lý dữ liệu lớn với kiến trúc dựa trên microservice đảm bảo xử lý giao dịch nhanh chóng và an toàn. 3) Phân tích và quản lý rủi ro tốt hơn: Các hệ thống phát hiện gian lận giúp ngân hàng quản trị rủi ro tốt hơn. Ngoài ra, các công nghệ xác thực và quy trình xác nhận đa cấp được hỗ trợ bởi công nghệ sẽ loại bỏ những sai sót có thể xảy ra trong giao dịch đối với khách hàng và nhân viên ngân hàng. 4) Tự động hóa các tác vụ lặp đi lặp lại: Tự động quá các tác vụ thủ công, lặp lại giúp các ngân hàng cải thiện năng suất nhân viên và tiết kiệm lượng lớn chi phí nhân công. Ngoài ra, tự động hóa giúp giảm sai sót do con người trong quá trình thực hiện, đối chiếu các giao dịch. 5) Cung cấp trải nghiệm cá nhân hóa: Chuyển đổi số cho phép các ngân hàng biết khách hàng thực sự muốn gì, từ đó thiết kế các dịch vụ tài chính phù hợp nhất với yêu cầu của khách hàng thay vì việc phỏng đoán. Việc áp dụng các công nghệ mới cho phép các ngân hàng tăng cường sự tương tác của khách hàng với các dịch vụ được cá nhân hóa. 6) Cho phép đổi mới và khả năng thích ứng và tùy biến cao: Sự xuất hiện của các cổng thông tin mua sắm, kênh xã hội và ứng dụng di động tích hợp đã mở ra nhiều cánh cửa để các ngân hàng tiếp cận gần với khách hàng.

Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, ngân hàng được xác định là lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hàng ngày tới người dân, thay đổi nhận thức nhanh nhất, cần ưu tiên chuyển đổi số trước. Về nguồn lực cho hoạt động chuyển đổi số, Quyết định số 749/QĐ-TTg nhấn mạnh: “Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số. Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức... Đi nhanh, đi trước giúp dễ thu hút nguồn lực...” từ đó đưa ra nhiệm vụ, giải pháp về “... tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số và chuyển đổi số, hình thành văn hóa số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số...”.

Phát triển nguồn nhân lực là một trong 9 nhóm giải pháp quan trọng nêu tại Kế hoạch chuyển đổi số Ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt "Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030"). Tuy nhiên, trong bối cảnh thiếu hụt nguồn nhân lực chuyển đổi số nói chung đi kèm với cạnh tranh gay gắt trong tuyển dụng đã và đang ảnh hưởng lớn tới kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của các ngân hàng. Do đó, để tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, các ngân hàng có thể cân nhắc tập trung vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng tầm nhìn và văn hóa của ngân hàng phù hợp với chuyển đổi số như việc xây dựng mô hình ngân hàng số (digital bank), ngân hàng tương tác xã hội (social engaged bank), ngân hàng dựa trên dữ liệu (data-driven bank)... Một văn hóa số sẽ củng cố, truyền cảm hứng cho bộ máy nhân sự của ngân hàng nhằm kiến tạo tư duy số (digital mindset). Để làm được điều này, cần có sự chuyển đổi từ đội ngũ lãnh đạo, cán bộ quản lý cấp cao nhằm tạo chuyển biến nhận thức từ trên xuống dưới, từ cao xuống thấp. Ngoài ra, giải pháp này cũng có thể bao gồm: (i) Yêu cầu lãnh đạo, quản lý đào tạo, huấn luyện cho cán bộ cấp dưới về chuyển đổi số theo định kỳ (việc này bắt buộc bản thân đội ngũ lãnh đạo phải học hỏi, cập nhật để tránh tụt hậu); (ii) Cán bộ, nhân viên cấp dưới trao đổi, bày tỏ ý kiến quan điểm tới đội ngũ lãnh đạo quản lý về công nghệ, kỹ năng số, các sáng kiến đổi mới... để tăng cường kết nối giữa cán bộ với đội ngũ lãnh đạo các cấp, đồng thời, từng bước xây dựng và hình thành kỹ năng và môi trường, phong cách làm việc phù hợp yêu cầu chuyển đổi số ngân hàng.

Tiếp theo là cấu trúc bộ máy và sắp xếp lại các bộ phận, phòng/ban một cách hợp lý để tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, ứng dụng triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới một cách linh hoạt và nhanh chóng; xem xét thành lập và đưa vào vận hành đội ngũ chuyên trách, đầu mối triển khai các nhiệm vụ thúc đẩy chuyển đổi số và các sáng kiến ứng dụng công nghệ trong ngân hàng, đội ngũ chuyên trách có thể hình thành dưới dạng phòng, trung tâm chuyển đổi số hoặc tổ công tác (task force) nghiên cứu, phát triển các sáng kiến chuyển đổi số bao gồm nhân sự đến từ nhiều bộ phận khác nhau (như tuân thủ, nhân sự, pháp lý, công nghệ, nghiệp vụ...) phát triển, vận hành các trung tâm đổi mới sáng tạo, môi trường thử nghiệm nội bộ để phục vụ nghiên cứu, phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới, thu hút sự tham gia của các công ty công nghệ, trường đại học, viện nghiên cứu, nhà phát triển phần mềm độc lập hay nhân sự tài năng trong chính nội bộ ngân hàng.

Xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nhân lực hiện có về kỹ năng, kiến thức về công nghệ số, chuyển đổi số. Bên cạnh đó, tốc độ thay đổi nhanh chóng của cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung và trong ngành Ngân hàng nói riêng cũng đòi hỏi lực lượng cán bộ, nhân viên phải có khả năng tiếp thu, học, học lại các kỹ năng, kiến thức mới trong suốt quá trình làm việc của mình (kỹ năng học tập suốt đời - lifelong learning).

Xây dựng mối quan hệ, mạng lưới với các tổ chức, đối tác khác như Fintech, Bigtech, các trường đại học, viện nghiên cứu nhằm triển khai các chương trình, kế hoạch đào tạo, đi thực tế, thực tập để học tập công nghệ cũng như chuẩn bị nguồn cán bộ dự trù từ đội ngũ sinh viên.

Cuối cùng là đẩy mạnh triển khai các kế hoạch, phương án thu hút, giữ chân nhân sự tài năng thông qua các chế độ ưu đãi lương, thưởng, môi trường làm việc hấp dẫn, linh hoạt, các chương trình thi đua, khuyến khích nghiên cứu, phát triển sản phẩm, công nghệ mới...

Tuy nhiên, để đảm bảo chuyển đổi số thành công, các ngân hàng cần một lộ trình từng bước phù hợp theo các bước như sau:

Bước 1: Định hướng và chiến lược số: Ngân hàng cần xác định chính xác trọng tâm, chiến lược chuyển đổi số phù hợp với chiến lược kinh doanh;

Bước 2: Phân tích vấn đề: Ngân hàng cần tái thiết kế lại quy trình dựa trên hành trình trải nghiệm khách hàng, mục tiêu tối ưu hóa hoạt động. Ví dụ: các nhà quản lý cần tìm hiểu sâu và phân tích những vấn đề nhức nhối thực sự khi khách hàng sử dụng các dịch vụ thanh toán, mở thẻ, chăm sóc khách hàng. Từ đó đưa ra ý tưởng các sáng kiến số phù hợp để giải quyết vấn đề;

Bước 3: Xây dựng lộ trình chuyển đổi số: Ngân hàng xây dựng ngân sách, lập mô hình tính toán hiệu quả mang lại và xây dựng lộ trình chuyển đổi số phù hợp với mục tiêu và ngân sách của ngân hàng;

Bước 4: Thực hiện và giám sát: Ngân hàng xác định rõ ràng KPI để theo dõi kết quả của từng dự án chuyển đổi số và đảm bảo sử dụng công nghệ tốt nhất, triển khai trong thời gian nhanh nhất;

Bước 5: Đánh giá và xác nhận: Việc đánh giá và xác nhận kết quả giúp các ngân hàng có thêm thông tin cập nhật, nhằm đưa ra các cải tiến phù hợp để dự án đạt được hiệu quả mong muốn;

Bước 6: Báo cáo và cải tiến: Báo cáo kết quả thực hiện và cải tiến thường xuyên là các hành động quan trọng để đảm bảo một dự án thành công, phù hợp với tình hình triển khai và đồng bộ với các dự án chuyển đổi số khác.

Hiện nay chuyển đổi số đối với ngành Ngân hàng không còn là sự lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc, là hướng đi chiến lược nhằm giúp ngành cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững trong kỷ nguyên 4.0. Do đó, từng đảng viên, từng cán bộ, cá nhân công tác trong lĩnh vực ngân hàng cần có ý thức nâng cao nhận thức, thay đổi thói quen trong việc thực hiện chuyển đổi số, không ngừng học tập, trau dồi tri thức, gia tăng khả năng kết nối, truyền tải, sử dụng và áp dụng chuyển đổi số vào công việc và cuộc sống thường ngày.

Nguyễn Thị Thái Hậu

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps