Cách hỗ trợ từ gốc cho sản xuất nông nghiệp

07:39 | 15/11/2024

6,172 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ở góc độ “người trong cuộc”, nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp đều cho rằng, cần đưa phân bón trở lại chịu thuế GTGT 5% để tránh hiệu ứng tăng giá sản phẩm, hỗ trợ từ gốc cho bà con và sản xuất nông nghiệp
Ông Nguyễn Tuấn Hồng - HTX Bắc Hồng

Ông Nguyễn Tuấn Hồng - HTX Bắc Hồng

Trước đây khi áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) năm 2008, phân bón là đối tượng chịu thuế GTGT 5%. Tuy nhiên, Luật số 71 ban hành ngày 26-11-2014 quy định phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT kể từ ngày 1-1-2015 (Luật Thuế 71). Điều này vô hình là nguyên nhân khiến ngành phân bón gặp khó khăn hơn cả khi chịu thuế GTGT kể từ sau năm 2014.

Thực tế đã chứng minh việc bỏ thuế GTGT với phân bón tưởng là “ưu đãi” hóa ra lại là “ngược đãi” với người nông dân và các doanh nghiệp sản xuất.

Cụ thể, khi mua nguyên vật liệu, máy móc và dịch vụ đầu vào, các doanh nghiệp đã phải nộp thuế GTGT, tuy nhiên, khi không áp thuế, phân bón đầu ra không được khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, làm tăng chi phí sản xuất khiến giá phân bón cao hơn. Người nông dân là đối tượng tiêu thụ cuối cùng, chính là người chịu thiệt, phải chịu mức giá cao hơn trước.

Phân bón giá cao ăn mòn công sức người nông dân

Chia sẻ với vấn đề này, ông Nguyễn Tuấn Hồng - Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng (Đông Anh, Hà Nội) cho biết, từ khi áp dụng Luật Thuế 71 đến nay, giá phân bón đã tăng đến 30%.

Trong đó, lý do từ chính sách là khi phân bón không chịu thuế GTGT khiến doanh nghiệp sản xuất không được hoàn thuế, họ đã cộng tiền đó vào giá thành mặt hàng bán ra. Tình hình càng trở nên khó khăn khi nguyên liệu đầu vào khan hiếm, chịu ảnh hưởng của tình hình thế giới sau chiến tranh Nga - Ukraine, giá phân bón tiếp tục tăng thêm.

Trong hai nguyên nhân trên, theo ông Hồng, việc đưa phân bón ra khỏi danh mục không chịu thuế tưởng lợi mà lại bất cập, làm tăng giá phân bón. Trong khi đó, phân bón là nguyên liệu đầu vào không thể thiếu, đóng vai trò quan trọng đối với người dân nông dân trong mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp.

“Trước năm 2014, chi phí phân bón dành cho canh tác trên 1 sào trồng rau (0,1 ha) chỉ khoảng 300.000 đồng trong tổng số 1 triệu đồng bao gồm tất cả các chi phí đầu vào. Nhưng từ sau năm 2014, giá phân bón tăng đã khiến chi phí này đội lên gần 500.000 đồng. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí phân bón đã tăng 30-35% ăn mòn vào lợi nhuận của bà con nông dân”, Giám đốc HTX Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng nêu số liệu dẫn chứng.

Ông Hồng lo ngại giá phân bón tăng cao và còn tiếp tục tăng trong thời gian tới nếu không có cơ chế, chính sách mới của Nhà nước sẽ khiến người làm nông nghiệp đuối sức, nhất là các hộ nhỏ lẻ.

Nhớ lại những thời điểm giá phân bón chịu thêm ảnh hưởng kép của biến động thế giới năm 2022, ông Hồng cho biết, nhiều hộ nông dân ở thôn Bắc Hồng đã phải dừng sản xuất, chuyển sang đi làm thuê mướn các công việc khác, vì giá thành bán rau ra không đủ bù chi phí đầu vào, nhất là tiền mua phân bón, trong khi đầu ra của sản xuất nông nghiệp vốn đã bấp bênh.

Một điểm bất cập khác theo ông Hồng, là từ sau năm 2014, các doanh nghiệp phân bón phải tiết kiệm chi phí nên cũng giảm các chương trình hỗ trợ bà con về giá bán, hay các hoạt động khảo nghiệm cánh đồng. Do đó các hộ sản xuất nông nghiệp cũng thiệt thòi hơn so với trước.

Hệ lụy tiếp theo của giá phân bón tăng từ sau năm 2014, ông Hồng quan sát thấy vấn nạn phân bón giả tăng theo nhiều vô kể. Người nông dân khi muốn tiết giảm chi phí sẽ thấy phân bón nào rẻ hơn là ưu tiên dùng, do vậy, nhiều đối tượng đã lợi dụng tâm lý đó tạo ra những sản phẩm kém chất lượng hơn, trộn nguyên liệu giả vào.

Theo ông Hồng, việc đưa phân bón quay trở lại chịu thuế GTGT 5% sẽ tạo thuận lợi lớn cho sản xuất nông nghiệp. Khi giá phân bón giảm, lợi nhuận của người nông dân, người sản xuất nông nghiệp sẽ tăng lên. Những hộ sản xuất lớn sẽ nhìn thấy hiệu quả rõ rệt, giúp người làm nông nghiệp yên tâm hơn vào đầu tư sản xuất.

Ông Hồng bộc bạch: “Tâm lý của người nông dân luôn muốn ưu tiên dùng các sản phẩm phân bón do doanh nghiệp trong nước sản xuất. Phần vì tâm lý “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, phần vì chúng tôi cảm thấy yên tâm hơn, nhất là những sản phẩm vi sinh, vô cơ tiên tiến mới, nhưng dĩ nhiên là mong muốn giá bán giảm đi và ổn định hơn”.

“Tôi cũng đã nhiều lần kiến nghị Nhà nước, các bộ, ngành hỗ trợ nông dân, nông nghiệp các chính sách từ gốc, tiêu biểu là có cơ chế giảm giá thành đầu vào phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, các công cụ máy móc nông nghiệp, đầu tư cho bảo quản chế biến sau thu hoạch. Những chính sách này rất hữu ích, thiết thực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp”, Giám đốc HTX Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng nhấn mạnh.

Ảnh minh họa HTX

Ảnh minh họa HTX

Hỗ trợ người nông dân qua chính sách thuế GTGT 5%

Từ góc nhìn của doanh nghiệp có liên kết chặt chẽ với các hộ nông dân trồng nha đam khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, ông Nguyễn Văn Thứ - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm G.C (G.C Food) cũng cho rằng, cần đưa phân bón trở lại chịu thuế GTGT 5% để hỗ trợ bà con về giá thành.

Quan sát thực tế kinh doanh, ông Thứ cho biết, doanh nghiệp mong muốn có thuế GTGT đầu vào và đầu ra cho mặt hàng phân bón để tránh cơ chế 2 giá cho cùng mặt hàng. Giá người nông dân mua hàng không có thuế GTGT trong khi doanh nghiệp mua lại có thuế, dẫn đến sự không đồng nhất trong chính sách thuế.

Trong thời gian tới, Nhà nước định hướng sản xuất kinh tế nông nghiệp, tức là tạo ra hàng hóa phục vụ thương mại, không chỉ để tiêu dùng. Do đó, phân bón là đầu vào của kinh tế nông nghiệp, nên mặt hàng này cần được áp thuế GTGT.

Trong trường hợp doanh nghiệp nông nghiệp mua hàng chịu thuế, nông dân không chịu thuế, doanh nghiệp sản xuất phân bón sẽ hình thành 2 cơ cấu giá bán, trong đó người nông dân phải chịu mua giá bất lợi hơn để bảo đảm bù đắp lợi nhuận của họ.

Việc đưa phân bón quay trở lại chịu thuế GTGT 5% sẽ tạo thuận lợi lớn cho sản xuất nông nghiệp. Khi giá phân bón giảm, lợi nhuận của người nông dân, người sản xuất nông nghiệp sẽ tăng lên. Những hộ sản xuất lớn sẽ nhìn thấy hiệu quả rõ rệt, giúp người làm nông nghiệp yên tâm hơn vào đầu tư sản xuất.

Bởi doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp mua phân bón được tính GTGT, còn người nông dân thì không. Trong khi đó, doanh nghiệp và người nông dân đều mua phân bón để phục vụ sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm nông nghiệp để bán lại.

“Bản chất đây là thuế gián thu, doanh nghiệp phân bón thu của nông dân nộp lại cho Nhà nước nên khi phân bón không được áp thuế GTGT đầu vào, nông dân sẽ phải mua với giá thiệt hơn vì giá thành phân bón đã cộng phần thiếu hụt GTGT của doanh nghiệp phân bón, nhưng vì nông sản bán ra không có thuế GTGT nên không được hoàn lại. Còn doanh nghiệp khi tiêu thụ nông sản có thuế GTGT đầu ra, do đó khi được hoàn thuế sẽ có chi phí để bù đắp giá nguyên liệu đầu vào. Điều này gây thiệt thòi cho người nông dân rất nhiều”, ông Thứ phân tích.

Theo Chủ tịch HĐQT G.C Food, các sản phẩm liên quan đến GTGT trong sản xuất nông nghiệp cần được Nhà nước, Bộ Tài chính tính toán kỹ để hài hòa, bảo đảm lợi nhuận cho người nông dân nói riêng và người sản xuất nông nghiệp nói chung, tránh tình trạng từ sản xuất có lời nhưng vì chính sách thuế mà trở thành thua lỗ.

“Chính sách thuế GTGT 0% với phân bón thời gian qua là một trong những yếu tố làm tăng giá phân bón, gây thiệt thòi chung cho những người sản xuất nông nghiệp. Nhất vào những thời điểm giá phân bón bị tác động thêm của những yếu tố kinh tế - chính trị thế giới đã làm suy giảm lợi nhuận doanh nghiệp”, ông Thứ nhìn nhận.

Ông Nguyễn Văn Thứ - G.C Food

Ông Nguyễn Văn Thứ - G.C Food

Theo tính toán của G.C Food, chi phí phân bón hiện đang chiếm 10-30% tổng chi phí sản xuất, là tỷ trọng cao trong cơ cấu giá thành của sản phẩm nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp và người nông dân.

Doanh nghiệp phân bón tính toán giá thành bán hàng dựa trên nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất. Do vậy, theo ông Thứ, cơ chế hay nhất là các nhà sản xuất phân bón cần minh bạch thông tin liên quan đến thuế, chi phí đầu vào và việc tăng giá căn cứ cụ thể vào các yếu tố này để có giá bán hợp lý, nhất là đối với các doanh nghiệp phân bón quy mô lớn.

Trong thời gian tới, Nhà nước định hướng sản xuất kinh tế nông nghiệp, tức là tạo ra hàng hóa phục vụ thương mại, không chỉ để tiêu dùng. Do đó, phân bón là đầu vào của kinh tế nông nghiệp, nên mặt hàng này cần được áp thuế GTGT.

Diệu Phương

  • bidv-14-4
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,900 120,900
AVPL/SJC HCM 118,900 120,900
AVPL/SJC ĐN 118,900 120,900
Nguyên liệu 9999 - HN 10,830 11,250
Nguyên liệu 999 - HN 10,820 11,240
Cập nhật: 06/07/2025 06:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.800 117.400
TPHCM - SJC 118.900 120.900
Hà Nội - PNJ 114.800 117.400
Hà Nội - SJC 118.900 120.900
Đà Nẵng - PNJ 114.800 117.400
Đà Nẵng - SJC 118.900 120.900
Miền Tây - PNJ 114.800 117.400
Miền Tây - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.800
Giá vàng nữ trang - SJC 118.900 120.900
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.800
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.800 117.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.100 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.980 116.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.270 115.770
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.030 115.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.100 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.860 68.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.160 48.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.410 106.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.780 71.280
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.440 75.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.940 79.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.380 43.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.130 38.630
Cập nhật: 06/07/2025 06:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,710
Trang sức 99.9 11,260 11,700
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,470 11,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,470 11,770
Miếng SJC Thái Bình 11,890 12,090
Miếng SJC Nghệ An 11,890 12,090
Miếng SJC Hà Nội 11,890 12,090
Cập nhật: 06/07/2025 06:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16611 16880 17475
CAD 18701 18979 19604
CHF 32300 32683 33345
CNY 0 3570 3690
EUR 30185 30459 31504
GBP 34919 35312 36264
HKD 0 3202 3406
JPY 174 178 184
KRW 0 18 20
NZD 0 15550 16152
SGD 19985 20268 20809
THB 723 786 842
USD (1,2) 25902 0 0
USD (5,10,20) 25942 0 0
USD (50,100) 25971 26005 26360
Cập nhật: 06/07/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,990 25,990 26,350
USD(1-2-5) 24,950 - -
USD(10-20) 24,950 - -
GBP 35,342 35,438 36,328
HKD 3,275 3,285 3,384
CHF 32,596 32,697 33,515
JPY 177.99 178.31 185.87
THB 771.36 780.88 835.42
AUD 16,913 16,974 17,452
CAD 18,967 19,028 19,583
SGD 20,159 20,222 20,899
SEK - 2,691 2,784
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,062 4,202
NOK - 2,553 2,642
CNY - 3,605 3,702
RUB - - -
NZD 15,540 15,684 16,143
KRW 17.73 18.49 19.96
EUR 30,389 30,413 31,655
TWD 816.31 - 987.42
MYR 5,792.07 - 6,533.33
SAR - 6,861.31 7,221.27
KWD - 83,422 88,692
XAU - - -
Cập nhật: 06/07/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,010 26,010 26,350
EUR 30,234 30,355 31,484
GBP 35,175 35,316 36,313
HKD 3,270 3,283 3,388
CHF 32,425 32,555 33,488
JPY 177.34 178.05 185.45
AUD 16,872 16,940 17,483
SGD 20,199 20,280 20,834
THB 788 791 827
CAD 18,952 19,028 19,563
NZD 15,655 16,166
KRW 18.42 20.23
Cập nhật: 06/07/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26000 26000 26350
AUD 16806 16906 17479
CAD 18901 19001 19558
CHF 32579 32609 33495
CNY 0 3618.3 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30473 30573 31345
GBP 35227 35277 36388
HKD 0 3330 0
JPY 177.81 178.81 185.33
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.8 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15663 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20162 20292 21020
THB 0 753.3 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12090000
XBJ 10800000 10800000 12090000
Cập nhật: 06/07/2025 06:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,000 26,050 26,300
USD20 26,000 26,050 26,300
USD1 26,000 26,050 26,300
AUD 16,854 17,004 18,070
EUR 30,513 30,663 31,841
CAD 18,851 18,951 20,273
SGD 20,242 20,392 20,865
JPY 178.35 179.85 184.5
GBP 35,327 35,477 36,265
XAU 11,928,000 0 12,132,000
CNY 0 3,503 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/07/2025 06:00