Cách hỗ trợ từ gốc cho sản xuất nông nghiệp

07:39 | 15/11/2024

6,188 lượt xem
|
(PetroTimes) - Ở góc độ “người trong cuộc”, nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp đều cho rằng, cần đưa phân bón trở lại chịu thuế GTGT 5% để tránh hiệu ứng tăng giá sản phẩm, hỗ trợ từ gốc cho bà con và sản xuất nông nghiệp
Ông Nguyễn Tuấn Hồng - HTX Bắc Hồng

Ông Nguyễn Tuấn Hồng - HTX Bắc Hồng

Trước đây khi áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) năm 2008, phân bón là đối tượng chịu thuế GTGT 5%. Tuy nhiên, Luật số 71 ban hành ngày 26-11-2014 quy định phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT kể từ ngày 1-1-2015 (Luật Thuế 71). Điều này vô hình là nguyên nhân khiến ngành phân bón gặp khó khăn hơn cả khi chịu thuế GTGT kể từ sau năm 2014.

Thực tế đã chứng minh việc bỏ thuế GTGT với phân bón tưởng là “ưu đãi” hóa ra lại là “ngược đãi” với người nông dân và các doanh nghiệp sản xuất.

Cụ thể, khi mua nguyên vật liệu, máy móc và dịch vụ đầu vào, các doanh nghiệp đã phải nộp thuế GTGT, tuy nhiên, khi không áp thuế, phân bón đầu ra không được khấu trừ thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, làm tăng chi phí sản xuất khiến giá phân bón cao hơn. Người nông dân là đối tượng tiêu thụ cuối cùng, chính là người chịu thiệt, phải chịu mức giá cao hơn trước.

Phân bón giá cao ăn mòn công sức người nông dân

Chia sẻ với vấn đề này, ông Nguyễn Tuấn Hồng - Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng (Đông Anh, Hà Nội) cho biết, từ khi áp dụng Luật Thuế 71 đến nay, giá phân bón đã tăng đến 30%.

Trong đó, lý do từ chính sách là khi phân bón không chịu thuế GTGT khiến doanh nghiệp sản xuất không được hoàn thuế, họ đã cộng tiền đó vào giá thành mặt hàng bán ra. Tình hình càng trở nên khó khăn khi nguyên liệu đầu vào khan hiếm, chịu ảnh hưởng của tình hình thế giới sau chiến tranh Nga - Ukraine, giá phân bón tiếp tục tăng thêm.

Trong hai nguyên nhân trên, theo ông Hồng, việc đưa phân bón ra khỏi danh mục không chịu thuế tưởng lợi mà lại bất cập, làm tăng giá phân bón. Trong khi đó, phân bón là nguyên liệu đầu vào không thể thiếu, đóng vai trò quan trọng đối với người dân nông dân trong mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp.

“Trước năm 2014, chi phí phân bón dành cho canh tác trên 1 sào trồng rau (0,1 ha) chỉ khoảng 300.000 đồng trong tổng số 1 triệu đồng bao gồm tất cả các chi phí đầu vào. Nhưng từ sau năm 2014, giá phân bón tăng đã khiến chi phí này đội lên gần 500.000 đồng. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí phân bón đã tăng 30-35% ăn mòn vào lợi nhuận của bà con nông dân”, Giám đốc HTX Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng nêu số liệu dẫn chứng.

Ông Hồng lo ngại giá phân bón tăng cao và còn tiếp tục tăng trong thời gian tới nếu không có cơ chế, chính sách mới của Nhà nước sẽ khiến người làm nông nghiệp đuối sức, nhất là các hộ nhỏ lẻ.

Nhớ lại những thời điểm giá phân bón chịu thêm ảnh hưởng kép của biến động thế giới năm 2022, ông Hồng cho biết, nhiều hộ nông dân ở thôn Bắc Hồng đã phải dừng sản xuất, chuyển sang đi làm thuê mướn các công việc khác, vì giá thành bán rau ra không đủ bù chi phí đầu vào, nhất là tiền mua phân bón, trong khi đầu ra của sản xuất nông nghiệp vốn đã bấp bênh.

Một điểm bất cập khác theo ông Hồng, là từ sau năm 2014, các doanh nghiệp phân bón phải tiết kiệm chi phí nên cũng giảm các chương trình hỗ trợ bà con về giá bán, hay các hoạt động khảo nghiệm cánh đồng. Do đó các hộ sản xuất nông nghiệp cũng thiệt thòi hơn so với trước.

Hệ lụy tiếp theo của giá phân bón tăng từ sau năm 2014, ông Hồng quan sát thấy vấn nạn phân bón giả tăng theo nhiều vô kể. Người nông dân khi muốn tiết giảm chi phí sẽ thấy phân bón nào rẻ hơn là ưu tiên dùng, do vậy, nhiều đối tượng đã lợi dụng tâm lý đó tạo ra những sản phẩm kém chất lượng hơn, trộn nguyên liệu giả vào.

Theo ông Hồng, việc đưa phân bón quay trở lại chịu thuế GTGT 5% sẽ tạo thuận lợi lớn cho sản xuất nông nghiệp. Khi giá phân bón giảm, lợi nhuận của người nông dân, người sản xuất nông nghiệp sẽ tăng lên. Những hộ sản xuất lớn sẽ nhìn thấy hiệu quả rõ rệt, giúp người làm nông nghiệp yên tâm hơn vào đầu tư sản xuất.

Ông Hồng bộc bạch: “Tâm lý của người nông dân luôn muốn ưu tiên dùng các sản phẩm phân bón do doanh nghiệp trong nước sản xuất. Phần vì tâm lý “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, phần vì chúng tôi cảm thấy yên tâm hơn, nhất là những sản phẩm vi sinh, vô cơ tiên tiến mới, nhưng dĩ nhiên là mong muốn giá bán giảm đi và ổn định hơn”.

“Tôi cũng đã nhiều lần kiến nghị Nhà nước, các bộ, ngành hỗ trợ nông dân, nông nghiệp các chính sách từ gốc, tiêu biểu là có cơ chế giảm giá thành đầu vào phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, các công cụ máy móc nông nghiệp, đầu tư cho bảo quản chế biến sau thu hoạch. Những chính sách này rất hữu ích, thiết thực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp”, Giám đốc HTX Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng nhấn mạnh.

Ảnh minh họa HTX

Ảnh minh họa HTX

Hỗ trợ người nông dân qua chính sách thuế GTGT 5%

Từ góc nhìn của doanh nghiệp có liên kết chặt chẽ với các hộ nông dân trồng nha đam khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, ông Nguyễn Văn Thứ - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm G.C (G.C Food) cũng cho rằng, cần đưa phân bón trở lại chịu thuế GTGT 5% để hỗ trợ bà con về giá thành.

Quan sát thực tế kinh doanh, ông Thứ cho biết, doanh nghiệp mong muốn có thuế GTGT đầu vào và đầu ra cho mặt hàng phân bón để tránh cơ chế 2 giá cho cùng mặt hàng. Giá người nông dân mua hàng không có thuế GTGT trong khi doanh nghiệp mua lại có thuế, dẫn đến sự không đồng nhất trong chính sách thuế.

Trong thời gian tới, Nhà nước định hướng sản xuất kinh tế nông nghiệp, tức là tạo ra hàng hóa phục vụ thương mại, không chỉ để tiêu dùng. Do đó, phân bón là đầu vào của kinh tế nông nghiệp, nên mặt hàng này cần được áp thuế GTGT.

Trong trường hợp doanh nghiệp nông nghiệp mua hàng chịu thuế, nông dân không chịu thuế, doanh nghiệp sản xuất phân bón sẽ hình thành 2 cơ cấu giá bán, trong đó người nông dân phải chịu mua giá bất lợi hơn để bảo đảm bù đắp lợi nhuận của họ.

Việc đưa phân bón quay trở lại chịu thuế GTGT 5% sẽ tạo thuận lợi lớn cho sản xuất nông nghiệp. Khi giá phân bón giảm, lợi nhuận của người nông dân, người sản xuất nông nghiệp sẽ tăng lên. Những hộ sản xuất lớn sẽ nhìn thấy hiệu quả rõ rệt, giúp người làm nông nghiệp yên tâm hơn vào đầu tư sản xuất.

Bởi doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp mua phân bón được tính GTGT, còn người nông dân thì không. Trong khi đó, doanh nghiệp và người nông dân đều mua phân bón để phục vụ sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm nông nghiệp để bán lại.

“Bản chất đây là thuế gián thu, doanh nghiệp phân bón thu của nông dân nộp lại cho Nhà nước nên khi phân bón không được áp thuế GTGT đầu vào, nông dân sẽ phải mua với giá thiệt hơn vì giá thành phân bón đã cộng phần thiếu hụt GTGT của doanh nghiệp phân bón, nhưng vì nông sản bán ra không có thuế GTGT nên không được hoàn lại. Còn doanh nghiệp khi tiêu thụ nông sản có thuế GTGT đầu ra, do đó khi được hoàn thuế sẽ có chi phí để bù đắp giá nguyên liệu đầu vào. Điều này gây thiệt thòi cho người nông dân rất nhiều”, ông Thứ phân tích.

Theo Chủ tịch HĐQT G.C Food, các sản phẩm liên quan đến GTGT trong sản xuất nông nghiệp cần được Nhà nước, Bộ Tài chính tính toán kỹ để hài hòa, bảo đảm lợi nhuận cho người nông dân nói riêng và người sản xuất nông nghiệp nói chung, tránh tình trạng từ sản xuất có lời nhưng vì chính sách thuế mà trở thành thua lỗ.

“Chính sách thuế GTGT 0% với phân bón thời gian qua là một trong những yếu tố làm tăng giá phân bón, gây thiệt thòi chung cho những người sản xuất nông nghiệp. Nhất vào những thời điểm giá phân bón bị tác động thêm của những yếu tố kinh tế - chính trị thế giới đã làm suy giảm lợi nhuận doanh nghiệp”, ông Thứ nhìn nhận.

Ông Nguyễn Văn Thứ - G.C Food

Ông Nguyễn Văn Thứ - G.C Food

Theo tính toán của G.C Food, chi phí phân bón hiện đang chiếm 10-30% tổng chi phí sản xuất, là tỷ trọng cao trong cơ cấu giá thành của sản phẩm nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp và người nông dân.

Doanh nghiệp phân bón tính toán giá thành bán hàng dựa trên nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất. Do vậy, theo ông Thứ, cơ chế hay nhất là các nhà sản xuất phân bón cần minh bạch thông tin liên quan đến thuế, chi phí đầu vào và việc tăng giá căn cứ cụ thể vào các yếu tố này để có giá bán hợp lý, nhất là đối với các doanh nghiệp phân bón quy mô lớn.

Trong thời gian tới, Nhà nước định hướng sản xuất kinh tế nông nghiệp, tức là tạo ra hàng hóa phục vụ thương mại, không chỉ để tiêu dùng. Do đó, phân bón là đầu vào của kinh tế nông nghiệp, nên mặt hàng này cần được áp thuế GTGT.

Diệu Phương

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,100 149,100
Hà Nội - PNJ 146,100 149,100
Đà Nẵng - PNJ 146,100 149,100
Miền Tây - PNJ 146,100 149,100
Tây Nguyên - PNJ 146,100 149,100
Đông Nam Bộ - PNJ 146,100 149,100
Cập nhật: 24/11/2025 22:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,840 15,040
Miếng SJC Nghệ An 14,840 15,040
Miếng SJC Thái Bình 14,840 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
NL 99.99 14,060 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,060 ▲20K
Trang sức 99.9 14,290 ▼10K 14,890 ▼40K
Trang sức 99.99 14,300 ▼10K 14,900 ▼40K
Cập nhật: 24/11/2025 22:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,484 15,042
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,484 15,043
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 146 1,485
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 146 1,486
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,445 1,475
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,154 14,604
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,286 110,786
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,296 10,046
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,634 90,134
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,651 86,151
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,164 61,664
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cập nhật: 24/11/2025 22:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16479 16747 17323
CAD 18162 18438 19051
CHF 32030 32412 33059
CNY 0 3470 3830
EUR 29788 30061 31089
GBP 33734 34123 35057
HKD 0 3258 3460
JPY 161 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14463 15048
SGD 19669 19950 20470
THB 727 790 843
USD (1,2) 26113 0 0
USD (5,10,20) 26155 0 0
USD (50,100) 26183 26203 26401
Cập nhật: 24/11/2025 22:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,181 26,181 26,401
USD(1-2-5) 25,134 - -
USD(10-20) 25,134 - -
EUR 29,945 29,969 31,106
JPY 165.17 165.47 172.4
GBP 34,125 34,217 35,012
AUD 16,773 16,834 17,268
CAD 18,398 18,457 18,980
CHF 32,301 32,401 33,063
SGD 19,785 19,847 20,461
CNY - 3,661 3,758
HKD 3,336 3,346 3,428
KRW 16.57 17.28 18.55
THB 775.66 785.24 835.28
NZD 14,496 14,631 14,977
SEK - 2,722 2,801
DKK - 4,005 4,121
NOK - 2,534 2,608
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,962.44 - 6,687.75
TWD 759.69 - 914.07
SAR - 6,929.24 7,253.41
KWD - 83,686 88,492
Cập nhật: 24/11/2025 22:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,181 26,401
EUR 29,755 29,874 31,004
GBP 33,885 34,021 34,988
HKD 3,319 3,332 3,440
CHF 32,009 32,138 33,025
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,674 16,741 17,277
SGD 19,803 19,883 20,420
THB 790 793 828
CAD 18,358 18,432 18,965
NZD 14,525 15,032
KRW 17.18 18.76
Cập nhật: 24/11/2025 22:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26109 26109 26401
AUD 16650 16750 17683
CAD 18344 18444 19455
CHF 32270 32300 33886
CNY 0 3676.8 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29962 29992 31717
GBP 34025 34075 35843
HKD 0 3390 0
JPY 164.76 165.26 175.8
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14565 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19824 19954 20676
THB 0 757 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14840000 14840000 15040000
SBJ 13000000 13000000 15040000
Cập nhật: 24/11/2025 22:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,401
USD20 26,190 26,240 26,401
USD1 26,190 26,240 26,401
AUD 16,726 16,826 17,942
EUR 30,059 30,059 31,171
CAD 18,299 18,399 19,706
SGD 19,861 20,011 20,574
JPY 165.28 166.78 172
GBP 34,116 34,266 35,047
XAU 14,838,000 0 15,042,000
CNY 0 3,559 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 24/11/2025 22:45