BOK kích hoạt chu kỳ tăng lãi suất ở châu Á?

10:59 | 27/08/2021

223 lượt xem
|
Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) vừa có quyết định tăng lãi suất, hiện thực kế hoạch hướng về bình thường hóa chính sách tiền tệ đã được dự kiến trong năm nay.

Nợ quốc gia tăng vọt

Theo thông tin mới nhất, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) vừa thực hiện đợt tăng lãi suất đầu tiên, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp, nhằm phục vụ mục đích chống lại lạm phát và kiềm chế các khoản nợ tăng cao. Đợt tăng lãi suất này cũng chấm dứt 15 tháng lãi suất thấp kỷ lục, khi nền kinh tế Hàn Quốc có dấu hiệu cải thiện.

Thống đốc Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc Lee Ju-yeol (C) chủ trì cuộc họp của Ủy ban Chính sách Tiền tệ tại Seoul vào thứ Năm, để quyết định tỷ giá chủ chốt cho tháng này (ảnh: Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc)
Thống đốc Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc Lee Ju-yeol chủ trì cuộc họp của Ủy ban Chính sách Tiền tệ tại Seoul để quyết định tỷ giá chủ chốt cho tháng này (ảnh: BOK)

Về vấn đề này, Hội đồng chính sách tiền tệ của BOK đã bỏ phiếu tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm lên 0,75 điểm phần trăm, trong cuộc họp ấn định tỷ giá lần thứ 6 của năm nay. Đồng thời đánh dấu lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 5 năm ngoái, khi BOK cắt lãi suất cơ bản xuống mức thấp kỷ lục 0,5%. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ tháng 11/2018, BOK nâng lãi suất cơ bản.

Việc nâng lãi suất cơ bản nhằm giúp BOK giữ triển vọng tăng trưởng năm 2021 ở mức 4% và nâng triển vọng lạm phát năm 2021 lên 2,1%, từ mức 1,8%, báo hiệu các điều kiện đang được xây dựng để thắt chặt chính sách hơn nữa.

Chia sẻ với giới truyền thông, Thống đốc BOK, Lee Ju-yeol cho biết, quyết định tăng lãi suất không được nhất trí hoàn toàn, thậm chí một thành viên Hội đồng Quản trị đã thúc giục Ngân hàng Trung ương đóng băng lãi suất chủ chốt.

Tuy nhiên, quyết định tăng lãi suất đưa ra dựa trên sự phục hồi kinh tế, lạm phát gia tăng và tình trạng mất cân bằng tài chính ngày càng trầm trọng. BOK sẽ theo dõi chặt chẽ sự gia tăng các ca nhiễm COVID-19, khi quyết định về chính sách tiền tệ trong tương lai. Mặt khác, dịch bệnh không có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng phục hồi kinh tế của đất nước”, Thống đốc Lee nhấn mạnh.

Thực tế, nợ quốc gia của Hàn Quốc theo ước tính, đã lần đầu tiên vượt qua 900 nghìn tỷ Won (770 tỷ USD) trong năm nay, mặc dù Chính phủ vẫn chưa công bố con số chính thức được cập nhật. Văn phòng Ngân sách Quốc hội tính toán rằng, nợ quốc gia - khoản nợ do chính quyền Trung ương và địa phương trực tiếp nắm giữ khoảng 938,9 nghìn tỷ Won. Con số chính thức mới nhất được Chính phủ công bố là 898,1 nghìn tỷ Won tính đến tháng 6. Điều này có nghĩa là, tổng số nợ đã tăng hơn 100 nghìn tỷ Won trong 9 tháng.

Ngay sau khi BOK điều chỉnh tăng lãi suất, chỉ số giá chứng khoán tổng hợp Hàn Quốc (KOSPI) tiêu chuẩn đã giảm 18,28 điểm, tương đương 0,58%, đóng cửa ở mức 3.128,53 điểm. Đồng nội tệ đóng cửa ở mức 1.170,5 won so với đô la Mỹ, giảm 2,4% so với đóng cửa phiên trước.

Nhà phân tích Kim Yong-koo của Samsung Securities đánh giá, việc BOK tăng lãi suất có vẻ giống như một cách đối phó với bong bóng trên thị trường tài sản, lạm phát và ngoại hối, hơn là một dấu hiệu của sự phục hồi kinh tế thực tế.

Lạc quan vào dấu hiệu phục hồi

Tuy nhiên, phía Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đưa ra dự báo rằng: “Trong tương lai, nền kinh tế có khả năng sẽ tiếp tục phục hồi do tiêu dùng tư nhân sẽ cải thiện dần dần, cũng như tác động từ việc mở rộng tiêm chủng vaccine và thực hiện ngân sách bổ sung. Bên cạnh đó, xuất khẩu và đầu tư dự kiến sẽ duy trì đà tăng tốt.

Đồng thời, BOK sẽ tiếp tục điều chỉnh mức độ phù hợp của chính sách tiền tệ vì nền kinh tế Hàn Quốc có thể trưởng tốt trong tương lai và lạm phát ở mức trên 2% trong một thời gian, bất chấp những bất ổn đang diễn ra do dịch bệnh. Trong quá trình này, Hội đồng sẽ đánh giá khi nào cần điều và đánh giá kỹ lưỡng các diễn biến liên quan đến COVID-19, những thay đổi trong tốc độ tăng trưởng cũng như lạm phát, nguy cơ tích tụ mất cân bằng tài chính, hay thay đổi chính sách tiền tệ ở các nước lớn”.

Theo dự báo, Trong tương lai, nền kinh tế có khả năng sẽ tiếp tục phục hồi do tiêu dùng tư nhân sẽ cải thiện dần dần, cũng như tác động từ việc mở rộng tiêm chủng vaccine (ảnh: Internet)
Theo dự báo, trong tương lai, nền kinh tế có khả năng sẽ tiếp tục phục hồi do tiêu dùng tư nhân sẽ cải thiện dần dần, cũng như tác động từ việc mở rộng tiêm chủng vaccine (ảnh: Internet)

Như vậy, với tuyên bố của BOK cũng nhằm ám chỉ Ngân hàng Trung ương có thể một lần nữa nâng lãi suất cơ bản vào cuối năm nay hoặc đầu năm sau. Quyết định của BOK được đưa ra trong bối cảnh cả nước đang chiến đấu chống lại đợt bùng phát COVID-19 tồi tệ nhất từ trước đến nay, với số ca nhiễm mới hàng ngày vẫn trên 1.000 và đã diễn ra trong hơn 50 ngày qua.

Một chuyên gia kinh tế nhận định mặc dù xuất khẩu của Hàn Quốc có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ, nhưng sức tiêu thụ yếu hơn đã đè nặng lên việc làm và gia tăng áp lực đến các nhà hoạch định chính sách. Cụ thể, xuất khẩu tăng 40,9% so với cùng kỳ năm ngoái trong 20 ngày đầu tháng 8 do nhu cầu tăng mạnh đối với chip, ô tô và các sản phẩm xăng dầu.

Paik Yoon-Min, nhà phân tích thu nhập cố định tại Kyobo Securities bình luận trên tờ The Straits Times: "Nếu có một đợt tăng lãi suất nữa trong năm nay, thì có thể sẽ là tháng 11, vì sẽ có ít nhất 2-3 đợt tăng lãi suất, bao gồm cả cuộc họp mới đây, để giải quyết rủi ro mất cân đối tài chính".

Hiện nay, các Ngân hàng Trung ương trên khắp thế giới đang đặt nền móng cho việc chuyển đổi khỏi biện pháp kích thích thời kỳ khủng hoảng, vì những hỗ trợ khẩn cấp cho tăng trưởng đang có nguy cơ sụp đổ và làm nóng nhiều nền kinh tế.

Động thái của BOK diễn ra một ngày trước khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed), Jerome Powell có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị Jackson Hole hàng năm của Ngân hàng Trung ương Mỹ, nơi ông được cho là sẽ báo hiệu hướng đi trong tương lai của chính sách tiền tệ nước này.

Quyết định của BOK thể hiện rủi ro có tính toán rằng, nền kinh tế định hướng xuất khẩu của Hàn Quốc, vốn đã tăng trở lại sau đợt đại dịch năm ngoái, đủ khỏe mạnh để bắt đầu cắt giảm kích thích, đặc biệt là khi nợ nần chồng chất nhanh chóng trở thành một vấn đề kinh tế lớn.

Điều đó trái ngược với New Zealand, quốc gia tuần trước đã trì hoãn đợt tăng lãi suất được mong đợi rộng rãi khi COVID-19 xuất hiện trở lại lần đầu tiên trong 6 tháng, gây ra sự không chắc chắn về sự phục hồi kinh tế của đất nước.

Các nhà phân tích kỳ vọng, BOK sẽ tăng lãi suất trong năm tới, với hầu hết đều dự báo lãi suất cơ bản ở mức 1,25% vào cuối năm 2022.

Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có gì chắc chắn là với động thái tăng lãi suất đầu tiên của mình, BOK đã kích hoạt và dẫn đầu chu kỳ tăng lãi suất ở châu Á; bởi nhiều quốc gia trong khu vực châu Á vẫn đang tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề của đợt dịch mới với biến chủng Delta, theo đó, các nhà điều hành đang thận trọng duy trì nới lỏng tiền tệ nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua đại dịch.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Agribank đã giải ngân hơn 116 ngàn tỷ đồng và 122 triệu USD cho vay ưu đãi hỗ trợ người dân, doanh nghiệpAgribank đã giải ngân hơn 116 ngàn tỷ đồng và 122 triệu USD cho vay ưu đãi hỗ trợ người dân, doanh nghiệp
BIDV dành 1.000 tỷ đồng hỗ trợ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp tại 19 tỉnh, thành phía NamBIDV dành 1.000 tỷ đồng hỗ trợ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp tại 19 tỉnh, thành phía Nam
Hạ lãi vay, nên hay không: Ngân hàng có thể giảm lãi 3% - 5%?Hạ lãi vay, nên hay không: Ngân hàng có thể giảm lãi 3% - 5%?

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Hà Nội - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Đà Nẵng - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Miền Tây - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Tây Nguyên - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Đông Nam Bộ - PNJ 142,500 ▲3000K 145,500 ▲3000K
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,230 ▲380K 14,600 ▲360K
Trang sức 99.9 14,220 ▲380K 14,590 ▲360K
NL 99.99 14,230 ▲380K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230 ▲380K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,380 ▲380K 14,610 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,380 ▲380K 14,610 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,380 ▲380K 14,610 ▲310K
Miếng SJC Thái Bình 14,410 ▲200K 14,610 ▲200K
Miếng SJC Nghệ An 14,410 ▲200K 14,610 ▲200K
Miếng SJC Hà Nội 14,410 ▲200K 14,610 ▲200K
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,441 ▲20K 14,612 ▲200K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,441 ▲20K 14,613 ▲200K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,423 ▲38K 1,445 ▲33K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,423 ▲38K 1,446 ▲33K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 140 ▼1227K 143 ▼1254K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 137,084 ▲3267K 141,584 ▲3267K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 99,911 ▲2476K 107,411 ▲2476K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 899 ▼86757K 974 ▼94182K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 79,889 ▲2013K 87,389 ▲2013K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,027 ▲1924K 83,527 ▲1924K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,287 ▲1376K 59,787 ▲1376K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,441 ▲20K 1,461 ▲20K
Cập nhật: 14/10/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16444 16712 17290
CAD 18193 18469 19085
CHF 32128 32510 33161
CNY 0 3470 3830
EUR 29814 30086 31114
GBP 34139 34529 35474
HKD 0 3259 3461
JPY 166 170 176
KRW 0 17 19
NZD 0 14667 15250
SGD 19706 19988 20514
THB 719 782 835
USD (1,2) 26087 0 0
USD (5,10,20) 26129 0 0
USD (50,100) 26157 26192 26369
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,169 26,169 26,369
USD(1-2-5) 25,123 - -
USD(10-20) 25,123 - -
EUR 30,101 30,125 31,245
JPY 170.5 170.81 177.84
GBP 34,626 34,720 35,511
AUD 16,797 16,858 17,285
CAD 18,459 18,518 19,030
CHF 32,525 32,626 33,284
SGD 19,911 19,973 20,580
CNY - 3,646 3,740
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.05 17.78 19.07
THB 770.71 780.23 829.32
NZD 14,716 14,853 15,189
SEK - 2,725 2,806
DKK - 4,027 4,140
NOK - 2,562 2,638
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,847.43 - 6,553.65
TWD 775.84 - 933.41
SAR - 6,931.8 7,250.59
KWD - 83,851 88,599
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 29,889 30,009 31,089
GBP 34,535 34,674 35,609
HKD 3,323 3,336 3,438
CHF 32,189 32,318 33,188
JPY 169.17 169.85 176.61
AUD 16,832 16,900 17,417
SGD 19,952 20,032 20,541
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,833 15,311
KRW 17.73 19.37
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16638 16738 17351
CAD 18381 18481 19082
CHF 32366 32396 33270
CNY 0 3655.6 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30002 30032 31055
GBP 34461 34511 35619
HKD 0 3390 0
JPY 169.74 170.24 177.26
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14782 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19867 19997 20736
THB 0 748.2 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14410000 14410000 14610000
SBJ 14000000 14000000 14610000
Cập nhật: 14/10/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,183 26,233 26,369
USD20 26,183 26,233 26,369
USD1 26,183 26,233 26,369
AUD 16,822 16,922 18,032
EUR 30,219 30,219 31,531
CAD 18,366 18,466 19,777
SGD 19,993 20,143 21,155
JPY 170.22 171.72 176.29
GBP 34,773 34,923 35,695
XAU 14,488,000 0 14,642,000
CNY 0 3,543 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 14/10/2025 23:00